Thị trấn biến mất
Thuở bé tôi vẫn nhìn về phía núi Vọng
Phu để lòng bồi hồi thương cho hai bóng người hóa đá. Bà tôi cũng kể rằng vùng
núi ấy có kẻ ngậm ngải tìm trầm, đi lạc trong rừng mấy mươi năm, khi tìm về
được quê nhà thì đã hóa thành con vượn không còn nói được tiếng người.
Huyền Chiêu
Thỉnh
thoảng, ở chợ Ninh Hòa tôi rất sợ khi nhìn thấy có một vài người da đen thui,
tóc quăn tít, đàn ông mặc khố, đàn bà địu con trên lưng. Chắc họ từ núi Vọng
Phu xuống,. Có người nói họ là người Thượng ở Buôn Sim.
Sau
hiệp định Geneve vài năm, Buôn Sim bỗng biến thành một quân trường khổng lồ gồm
ba trung tâm huấn luyện Pháo Binh, Biệt Động, Lam Sơn.
Và
cái tên Dục Mỹ ra đời.
Khác
với thời chống Pháp mà người lính là những “áo anh rách vai, quần tôi có hai
miếng vá”, các quân nhân miền Nam được huấn luyện và trang bị rất quy cũ với
các doanh trại khang trang, bề thế.
Với
số lượng quân nhân trong ba trung tâm huấn luyện kèm theo gia đình của sĩ quan,
hạ sĩ quan, binh sĩ, thị trấn Dục Mỹ mọc lên giữa bốn bề núi non, tuy nhỏ bé
nhưng vô cùng nhộn nhịp.
Cũng
giống như những thị trấn mới toanh trong phim cowboy miền viễn tây, Dục Mỹ là
nơi quy tụ của quá nhiều người tứ xứ về đây mang theo các giọng nói vùng miền.
Người
có máu làm ăn cũng vội vàng tìm về đất hứa.
Chợ
Dục Mỹ cung cấp đủ để nấu được các món ăn đặc trưng kiểu Sài Gòn, Bắc, Huế…. .
“Vợ
Lính” thong dong chẳng cần làm việc, chỉ lo cơm nước và nuôi con…
Những
chuyến xe lam như con thoi nối liền Ninh Hòa – Dục Mỹ. Người dân Ninh Hòa bây
giờ hướng về thị trấn mới như một thị trường hấp dẫn, nơi họ có thể làm giàu
nhờ nghề cung cấp thực phẩm.
Nhà
thờ và nhà chùa đã được xây. Các xe schoolbus được chế biến từ xe GMC của ba
quân trường chở con quân nhân xuống Ninh Hòa học ở các trường trung học. Những
cô cậu học trò đã từng ngồi trên những chiếc GMC cải tiến này, nay đã trên dưới
sáu mươi và tôi tin rằng dầu ở chân trời góc bễ nào họ không bao giờ quên những
chuyến xe chở học sinh kỳ lạ nhưng đầy ắp niềm vui một thuở.
Chủ
nhật, con phố Dục Mỹ “Đi dăm phút trở về chốn cũ” có bóng
dáng của những “thiếu úy”, “trung úy” trẻ trung, quân phục thẳng nếp, thong thả
dạo gót rồi ghé vào một tiệm sách có cô bán hàng xinh xinh.
Bên
con suối Dục Mỹ vài quán cà phê ra đời có tiếng nhạc hòa trong tiếng ầm ào thác
đổ.
Người
lính miền Nam thuở ấy vẫn còn mang vẻ thư sinh lãng mạn. Ra trận, thay vì nhìn
tới trước “nhắm thẳng quân thù mà bắn”, (*) họ quay nhìn lại phía sau “Người đi
khu chiến, thương người hậu phương” (**)
Biến
cố 1975 như một cơn động đất dữ dội làm sụp đổ hoàn toàn trung tâm huấn luyện.
Toàn bộ cư dân gồm quân nhân từ ba trung tâm huấn luyện cùng gia đình họ đều
chạy khỏi Dục Mỹ, tan tác hãi hùng như mãnh vỡ của một trái phá…
Thị
trấn bỗng chốc như bị thần đèn mang đi đâu mất.
Dục
Mỹ trở lại là buôn sim hoang vắng thuở nào.
Cũng
còn một số người ở lại vì họ không biết đi đâu về đâu và họ trở thành dân của
một vùng kinh tế mới mang tên Ninh Sim.
Và
người dân Ninh Sim đã phải làm gì để tồn tại khi 100% mang trên đầu bản án lý
lịch xấu, con cái chắc chắn không được vào đại học, người thân không biết còn
sống hay đã chết trong các trại cải tao?
Nếu
người Ninh Hòa khi ấy kiếm sống bằng cách bám vào bến xe đò và ga xe lửa với
các chuyến đi buôn lậu gạo, đường, thuốc lá, đạp xe ba gát, làm phu khuân vác
…thì người dân Ninh Sim Dục Mỹ kiếm sống bằng cách bám vào núi rừng. Họ lên núi
đào khoai mài, cắt tranh, lấy đót. Họ “ngậm ngãi tìm trầm” và có người đã mất
xác trong rừng sâu núi thẳm. Họ chặt củi, hái trái rừng, trồng khoai mì, trồng
mía. Họ tìm cách sống trong im lặng, chịu đựng mặc cho loa phường ngày ngày
vang lên giọng tự hào chiến thắng giặc Mỹ để toàn dân xây dựng thiên đường Xã
Hội Chủ nghĩa.
Và
tượng đá bồng con trên non cao kia chắc đã nhiều lần rơi lệ thương cho cảnh con
người bức hại con người.
Năm ngoái,
anh Phạm Văn Nhàn trở về Ninh Hòa, rủ vợ chồng tôi đi thăm lại Dục Mỹ, nơi anh
có thời gian rất lâu là sĩ quan của quân trường Lam Sơn.
Xe
ghé lại núi Đeo, nơi vẫn còn tháp huấn luyện của quân trường Biệt Động nằm bên
Khu Mưu Sinh.
Khu
Mưu Sinh được dựng bên một dòng suối đã biến mất nhưng ngôi tháp vẫn còn.
Anh
Nhàn muốn chụp một tấm hình có người lính già trở về thăm ngọn đồi kỷ niệm.
Qua
khỏi Dục Mỹ chúng tôi nhìn thấy những đồng mía bạt ngàn, những đàn bò gầy ốm
đang gặm cỏ trên những cánh đống nắng cháy.
Đến
khoảng cây số 17 anh Nhàn cho dừng xe.
“Hình
như trung tâm Lam Sơn hồi trước ở đây mà sao tui không còn nhìn thấy gì hết?”
Rồi
anh ghé vào hỏi thăm một cô hàng nước:
“Cô
ơi trung tâm Lam Sơn ở đâu hả cô”
Cô
hàng nước mỉm cười, chỉ tay xuống đất:
“- Dạ
ở ngay đây này”
Anh
Nhàn nhìn quanh. Chẳng còn gì là dấu vết của một địa danh lừng lẫy! Anh bước
thêm vài bước, chẳng thấy phố, thấy người chỉ thấy toàn mía là mía.
Hơn
mười năm tồn tại, Dục Mỹ của ba quân trường bây giờ chỉ là cát bụi thời gian.
Huyền
Chiêu
(*)
lời của một người lính miền bắc.
(**)
Chiều Mưa Biên Giới-Nguyễn văn Đông
304Đen
– llttm -sgtc
No comments:
Post a Comment