Bà
Mẹ Quê
Từ Chợ Đệm chạy giặc, tản cư ngược vô bưng, theo kênh về tới ngã
ba Tân Hội. Dì Ba tay xách, nách mang, dắt hai đứa con nhỏ đi bộ cặp theo bờ lộ
đá về tới cua “Ông Cọp” là biết sắp tới ngã tư Cai Lậy. Tiếng là cua ông
cọp, nhưng không biết có ai đã thấy cọp thật chưa? Còn người cố cựu ở đây thì
bảo rằng hồi xưa ở chỗ nầy có dựng một tấm bảng quảng cáo của hãng la-de, sản
xuất bia chai in hình đầu cọp, cho tới năm nào biến mất thì không ai còn nhớ.
Nhìn ra xa xa, phía bên trái hiện lên hai cây “quéo” trơ trọi giữa đồng trống
mênh mông, đó là khu mồ hoang vô chủ từ thời Pháp thuộc. Tiếng đồn ma trơi,
xanh lè hiện về hằng đêm vút lên tận trời cao như điện xẹt. Hồi trước không có
nhà cửa ở chung quanh, cho nên khu đất trống nầy đã trở thành bãi đổ rác của
đội vệ sinh thị trấn.
Từ
ngã tư Cai Lậy đi dọc theo hướng cầu đúc, chưa tới đình “Bang Lãnh” dưới chân
cầu, quẹo về phía bên trái là con hẻm nhỏ dẫn tới chùa Kim Tiên. Nhà cửa trong
xóm chật chội, quanh co choán ra tận lối đi. Nơi đây gọi là “xóm Bún” vì có
nhiều lò bún ngon, đến độ ngay tại ngã tư Cai Lậy, có một tiệm ăn trước đây rất
nổi tiếng khắp miền Lục tỉnh với bảng hiệu đúc xi măng, đặt ngay trên bệ cửa ra
vào, lấy tên là quán “Bì Bún.”
Đất
chùa còn nhiều chỗ trũng, đầm đìa rải rác nên người tứ xứ đổ về đây tự động xin
phép nhà chùa lấp đìa, cất nhà xung quanh để trú ngụ, làm ăn sinh sống bằng đủ
thứ ngành nghề khác nhau, nhưng mọi người vẫn quen gọi tên cũ là xóm Bún. Dì Ba
tìm gặp được người quen, bà con xa, xin ở đậu một thời gian rồi sau đó cất nhà,
ổn định cuộc sống bình dân lao động như đa số mọi người ở đây từ lâu đời.
Dì
theo chồng về Chợ Đệm năm 17 tuổi, học được nghề nấu “tàu hủ” từ gia đình nhà
chồng, cho nên khi về tới Cai Lậy thay vì làm bún, dì nấu tàu hủ gánh ra chợ
bán làm kế sinh nhai. Cũng có khiếu nấu nướng nên gánh tàu hủ của dì nổi tiếng
hơn cả, bán rất đắt, hầu như không có ai cạnh tranh nỗi và rồi tên dì
trở thành biệt hiệu là “Dì Ba Tàu Hủ.” Lâu dần, khắp cả xóm, chợ
không còn ai biết tên thật cùa dì nữa. Đời sống gia đình ổn định nhờ
vào gánh tàu hủ. Tuy vậy, công việc đòi hỏi phải thức khuya dậy sớm và
rong ruổi cả ngày ở chợ nên cũng rất cơ cực.
Vốn
mù chữ, nên khi đẻ được đứa con trai đầu lòng, dì muốn đánh dấu một
sự kiện trọng đại trong đời là phải cho con cái đi học, biết ít chữ
nghĩa để may ra sau nầy đỡ vất vả tấm thân, nên đã đặt tên cho đứa con
trai lớn đứng đầu vần chữ cái là Hai A. Sau đó, cứ tiếp tục theo vần
quốc ngữ mà đặt tên như Ba Bê, Tư Xê, tới đứa thứ tư thay vì Năm Dê, nghe
khó kêu nên ông thư ký hộ tịch bảo đặt tên khác. Dì Ba vẫn muốn giữ
nguyên vần Dê bèn đổi ra thành Năm Dồ. Tới đứa cuối cùng, vì sanh nở
khó khăn phải mổ xẻ, nên đặt luôn dấu chấm hết là Sáu Mổ.
Nói
là ổn định, chứ gia đình đông con mà chỉ sống bằng vào gánh tàu hủ
thì làm sao đủ được. Chồng của dì trước đây theo xe chở hàng làm phụ
xế đi đường trường từ Sài Gòn ra miền Trung. Hằng tháng ghé nhà một
hai lần rồi đi. Khi Hai A đến tuổi đi học, gia đình bàn tính dượng Ba
về kiếm việc làm gần nhà để phụ lo cho con cái. Từ đó, dượng về
làm đủ mọi việc ở vựa cá bên bờ sông Ba Rài, Cai Lậy để góp phần quán
xuyến gia đình.
Ngày
tháng qua mau, con cái cũng tới tuổi đi học và cho dù nhà có nghèo khó đến đâu,
dì Ba cũng ráng lo đầy đủ cho con đi học, nhưng ngặt một nỗi cha mẹ muốn là một
chuyện, còn đứa nhỏ có học được hay không lại là chuyện khác. Hai A học rất dở
mà lại ham chơi, thường hay trốn học đi rong, dượng Ba bắt được đem về xích dây
bên cột nhà, bỏ đói mấy lần mà cũng chứng nào tật nấy. Lâu dần, dì cũng đầu
hàng hết mong gì được nữa.
Ban
đầu mới đi học còn được, nhưng sau đó bị ở lại lớp nên học chung với đứa em kế
là Ba Bê. Có anh, có em lại rủ nhau trốn học nhiều hơn trước, mới mười mấy tuổi
đã biết bỏ nhà đi hoang. Riết rồi quen, không còn nói đến việc đi học nữa. Đến
lúc nầy, dì Ba dời cả gia đình xuống ngã ba xóm nghèo, gần chùa Ông chỉ có
chừng 3, 4 căn nhà trơ trọi, cất một căn nhà lá sát bên hông trường Tiểu học
Cai Lậy mới xây. Dì tính rằng cho mấy đứa nhỏ xa lánh không còn đánh đôi, đánh
đọ với bạn bè ở xóm cũ và ở gần trường, may ra mấy đứa nhỏ sẽ chí thú học hành
hơn. Nhưng đến năm 15 tuổi, Hai A nghĩ học luôn và xin đi làm phu thợ, dì Ba
buồn lắm. Những mong con cái có học, để sau nầy có chút chữ nghĩa đi làm nghề
gì cũng được, miễn ở trong công đường khỏi đội mưa, đội gió ngoài trời, khổ cực
tấm thân.
Hết
hy vọng, chỉ còn dượng Ba là người luôn an ủi:
-
Ở đời đâu phải ai cũng học được, nên mới có người làm thầy, kẻ làm thợ.
-
Biết vậy, nhưng chỉ mong sao cho mấy đứa nhỏ học hành kha khá một chút, hay ít
ra cũng biết được đôi điều lễ nghĩa. Vậy thôi.
-
Chưa chắc đúng. Người đời thường hay nói “Cha làm thầy, con bán sách.”
Chỉ có phước đức cùng không. Tất cả đều do ơn Trời.
-
Đi học, dù không làm thầy, bà gì đi nữa, nhưng cũng là người có học.
Được
vài năm, khi chiến tranh bùng phát khắp mọi nơi. Trai tráng đến độ tuổi 18, 20
đều bị động viên vào lính. Ở chợ thì theo quốc gia, trong quê thì theo cộng
sản. Trang lứa bạn bè, anh em với nhau, nhưng lại đối đầu nhau trên lằn ranh lửa
đạn. Hai A đi lính Sư Đoàn 7 VNCH đóng quân trong vùng Định Tường, Mỹ Tho, Ba
Bê đi lính Nghĩa quân đóng ở quê nhà Cai Lậy vẫn ở chung với dì Ba. Bạn học
cùng lớp, Tư Yên, thợ lò bánh mì vô bưng theo bộ đội cộng sản, Sáu Hiệp nghỉ
học sớm vô bưng ở cầu Dừa (Kinh Mười Hai) trở thành du kích Việt cộng.
Hai
A tuy không có bằng cấp và ít chữ nghĩa, nhưng lanh lợi, nên khi vào quân ngũ
hắn được cử làm hỏa đầu vụ, chuyên lo việc bếp núc ở hậu cứ đơn vị nên tương
đối an toàn tính mạng. Sau đó hắn tự lập gia đình, không có cưới hỏi gì cả. Đến
khi sanh được đứa con gái đầu lòng, hắn mới dẫn về trình diện dì Ba. Ngay cả
khi dì muốn làm một lễ “Phú Phạt” đặng mời bà con, họ hàng một bữa cơm ra mắt,
hắn cũng từ chối xin miễn. Hắn nói:
-
Làm chi cho tốn kém. Chỉ thêm rắc rối mà cũng chẳng được gì.
Dì
Ba đành chịu vậy thôi cho đến ngày dượng Ba mất, hắn có dẫn vợ con về chịu tang
được mấy ngày rồi cũng dong biệt. Sau đó dì hơi lo, vì “em thường hay theo anh”
nên dì nôn nóng nhờ người môi giới, làm mai cho một đứa con gái ở miệt đồng, đi
cưới hỏi đàng hoàng cho Ba Bê. Từ sau đó, dì giao gánh tàu hủ cho đứa con dâu,
đồng thời giao luôn cái “dịm” màu da bò vàng óng, đựng tàu hủ nóng mà dì đã đem
về từ Chợ Đệm hồi năm mới tản cư về Cai Lậy. Nhờ nó mà đã nuôi sống cả gia đình
hơn mấy chục năm qua. Dì ứa nước mắt.
Thế
rồi cộng sản tràn về chợ quận ngày 30 tháng 4 năm 1975, Sáu Hiệp ra làm công an
khu vực, Hai A, Ba Bê trở về đời sống dân thường, gốc lính quốc gia. Hai anh em
trở thành phu khuân vác ở các vựa cá dưới bờ sông. Tuy là anh em ruột, nhưng
thường hay nghịch nhau, đôi khi lớn tiếng đến độ sắp sửa đánh nhau, nếu không
có người can ngăn.
Kể
từ ngày dẫn vợ con trở về Cai Lậy, Hai A sang nhượng lại căn nhà lá gần nhà dì
Ba, cách đó độ chừng vài căn của một người làm chung ở vựa cá, nay thôi nghề
phu khuân vác trở về quê xã Bình Phú làm ruộng. Đến khi hai đứa con gái lớn của
hắn là Cẩm chị, Cẩm em được chừng khoảng 15, 16 tuổi thì mỗi sáng hai đứa gánh
tàu hủ đi bán, đứa đầu chợ, đứa cuối chợ. Vợ Ba Bê quê mùa, chậm chạp đành thất
thủ. Tàu hủ đựng trong dịm đã ít mà thấy không hấp dẫn bằng đựng trong nồi nhôm
bóng loáng. Hiềm khích hai gia đình phát sinh từ đó. Dì Ba thường hay ngồi bó
gối nhai trầu, nghe hai gia đình xỉa xói nhau mà nghĩ thầm, phải chi hai anh em
nó ở xa mà còn tốt hơn. Hồi trước, chỉ có một gánh tàu hủ thôi mà cả gia đình
vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hòa. Còn bây giờ, có tới ba gánh tàu hủ mà
anh em lại hiềm khích, xa rời nhau. Nghĩ mà buồn lắm.
Trừ
Tư Xê và Năm Dồ lập gia đình ở trong miệt kinh ngọn, còn ba anh em đều sinh
sống ở chợ. Sáu Mổ ở nhà dì Ba với vợ chồng Ba Bê, nhưng sinh hoạt đầu đường xó
chợ, không biết qua đêm ở đâu. Ban đầu hắn đi làm thuê, ai cần gì hắn làm hết.
Có hôm trèo bẻ dừa mướn trong xóm bị té ngã nhưng không chết, chỉ bị vẹo xương
sống và đi đứng có tật niểng một bên, nên lâu dần hàng xóm đổi tên thường gọi
là Sáu Vẹo cho dễ phân biệt.
Hôm
nào không có ai mướn, hắn ra đồng mò, bắt cua gần nửa thùng thiếc đem năn nỉ
rao bán khắp cả xóm, nhưng không ai mua. Tới chiều, hắn đem tới nhà người quen
năn nỉ, xin được đổi đủ tiền để mua vài gói mì ăn liền cho đỡ đói. Cũng có
người thương, tuy không cần cua để làm gì, nhưng cũng cho tiền hắn đủ mua mì
gói. Khi được tiền rồi, hắn chỉ mua một phần thôi, phần tiền còn lại hắn mua
“một cái mùng”, như hắn thường bảo.
Khi
trời sáng trắng, người trong xóm đi ra ngoài mới thấy hắn còn nằm co ro bên vệ
đường. Té ra, hắn đã mua rượu uống say từ chiều tối hôm qua, để ngủ say không
còn hay biết muỗi mòng cắn, đốt nữa là gì, y như là đang ngủ trong mùng vậy.
Thế
rồi chỉ một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng 4, Sáu Hiệp họp tổ dân phố và đề
cử Hai A làm tổ phó an ninh, từ đó hắn trở thành tai mắt của công an khu vực, có
nhiệm vụ báo cáo tình hình an ninh, trật tự trong khu xóm. Thỉnh thoảng còn tập
họp chung với du kích đi khám xét nhà, kiểm tra nhân hộ khẩu do Sáu Hiệp dẫn
đầu. Đêm nào chó sủa vang trời là mọi người thấp thỏm cả đêm, nhất là những gia
đình trước đây có người tham gia chế độ cũ.
Đâu
có ai xa lạ, cũng là bạn bè cùng trang lứa với nhau và hàng xóm tất cả đều là
người quen biết cũ, ít ra cũng hơn mấy chục năm. Họp tổ dân phố, Hai A luôn hùa
theo công an khu vực để hài tội các sĩ quan, viên chức chế độ cũ.
-
Bọn nào học càng cao thì càng mang nhiều nợ máu với nhân dân.
Có
một hôm, Sáu Hiệp ra lệnh cho Hai A tập trung các thành phần mới cải tạo về còn
trong thời hạn quản chế, đi lao động xã hội chủ nghĩa ngắn ngày tại địa phương.
Sáng ra tập họp mang theo cuốc xẻng, tưởng đi đâu xa, ai ngờ chỉ đến gần khu
đất thuộc chùa Ông để phát cỏ, chuẩn bị đắp nền nhà thật lớn cho Sáu Hiệp, hắn
vừa mới được thăng lên cấp sĩ quan công an. Dì Ba vẫn ngồi bó gối trong nhà
nhìn ra mà ngán ngẫm.
Trong
xóm, trên đường vào chùa Ông có nhà Thầy giáo Còn, con cái cũng đông, nghèo khó
mà đứa nào cũng học hành tới nơi, tới chốn. Luôn dạ thưa lễ phép, tuy không là
quan chức, nhưng đều là những người có học, sống thanh bần, xử sự với mọi người
thật hòa nhã và vui vẻ. Dì Ba nhìn hoàn cảnh người mà chợt tủi thân và buồn cho
thân phận mình, con cái lớn lên không theo như ý mình mong muốn. Nhỏ khuyên con
ráng học không thành, lớn lên khuyên con sống như người lương thiện cũng không
được. Nỗi buồn gặm nhấm dần, dì qua đời trong khốn khó, xa rời dương thế trong
tĩnh lặng, nhưng cũng không được yên.
Lúc
sinh thời, dì sống với vợ chồng đứa con thứ là Ba Bê và qua đời ở đó. Lẽ ra đám
tang sẽ được tổ chức ở nhà Ba Bê, nhưng Hai A viện lý do là con trai cả, nên
muốn đem thi hài của dì về làm đám ở nhà mình. Ba Bê từ chối. Giành giựt, giằng
co căng thẳng cao độ. Hai A đem vụ việc lên trụ sở khu phố xin giải quyết.
Trưởng khu giao cho Công an khu vực xét xử. Sáu Hiệp ra lệnh Ba Bê phải giao
xác dì Ba cho Hai A đem về làm đám tang tại nhà của hắn, viên cớ hắn là con
trai trưởng. Ba Bê không giao và bỏ nhà đi mất, không dự đám tang của mẹ mình.
Đám
tang có rất đông người đến dự và phúng điếu. Ngoài chợ cũng như trong xóm nghèo
chùa Ông, ai cũng đều có cảm tình với dì Ba. Bác Hai Lượm, ông Từ ở miễu “Bốn
Ông” có khuyên Hai A là nên xé khăn tang đủ cho hết thảy anh em và con cháu,
đồng thời phải cho người tìm kiếm Ba Bê về mới phải đạo. Hai A trả lời:
-
Nó là con thì phải về. Nó đã biết mẹ mất rồi, nên không cần phải tìm kiếm.
Bác
Hai Lượm thở dài, không còn có thể nói thêm điều gì nữa.
Hôm
đưa đám, Sáu Mổ quần áo lếch tha lếch thếch, đầu không bịt khăn tang, uống rượu
say sướt mướt. Hai A đuổi đi, hắn lững thững ra trước ngõ nói vọng vào.
-
Hiếu thảo gì, chẳng qua chỉ muốn giành xác bà già để thu tiền điếu.
Hai
A phân bua với khách:
-
Nó là đứa vô học.
Chợt
vô tình, có người quen biết dì Ba từ hồi dì mới tản cư về Cai Lậy, nhớ lại hết
cả một cuộc đời vất vả nuôi con của dì với những mong, sau nầy con cái mình lớn
lên sẽ trở thành người có học. Nghĩ mà thương đến rơi nước mắt.
Ngoài
kia trên con đường hẻm đất quanh co, tiếng đàn cò vẳng lên réo rắt một điệu
buồn ly biệt …
Trần
Bạch Thu (ĐS 17)
Từ nhóm CSVHVQGHC
No comments:
Post a Comment