Ảo Tưởng Mộng
Tuesday, December 9, 2025
Ký Ức Sài Gòn - Phúc Tiến
Mưa đêm và ánh sáng
Không hiểu vì sao tôi vẫn nhớ thuở
lên ba, có những buổi tối hai anh em tôi ngồi chờ mẹ ở nhà bà ngoại trong xóm
Bà Hạt, quận Mười. Thuở đó, những xóm nghèo chưa có điện, cả xóm lặng im trong
bóng tối và tiếng mưa rả rích. Và rồi, mẹ đạp xe đến, choàng chiếc áo mưa to,
chở hai anh em tôi từ hẻm sâu ra đường lớn. Chúng tôi đi như trong một đường hầm
đen, thình lình thấy ngoài trời vụt sáng. Ngồi sau lưng mẹ, nấp trong vạt áo
mưa, tôi ríu rít đặt tay lên những ánh đèn loang loáng trên áo mẹ. Tôi thích
thú vén vạt áo mưa lên, say sưa nhìn những cột đèn đường, những cửa tiệm tràn
ngập đèn màu, những chiếc xe hơi đủ kiểu lướt qua. Cảnh vật hai bên đường cứ thế
diễu qua hùng dũng như trong một chiếc đèn kéo quân uy nghi. Thế rồi, chẳng mấy
chốc, xe mẹ rẽ vào ngõ hẻm nơi có căn gác thuê trong xóm Vườn Bà Lớn. Tôi buồn
buồn gặp lại những ánh đèn dầu tù mù, gặp lại tiếng dế kêu rả rích, gặp lại mùi
nhang và mùi hoa huệ trên bàn thờ Phật. Cho đến bây giờ, tôi vẫn sợ những buổi
tối mưa đêm, không đèn, tĩnh mịch và cô liêu.
Thế nhưng sáng ra, tôi lại bước vào một
thế giới khác hẳn. Tiếng rao hàng, tiếng người đi chợ, đi làm rộn rã khắp các
con xóm. Tiếng cười nói trên radio, xen lẫn tiếng vọng cổ trên máy hát dĩa, làm
thành bài nhạc vui khó tả… Trước khi đến sở, mẹ đạp xe chở anh em tôi đi học,
áo mẹ ướt đầm mồ hôi. Từ xóm Vườn Bà Lớn ra đến giao lộ Ngã Bảy, đường phố tuôn
chảy đủ loại xe lớn nhỏ, có cả những chiếc xe thổ mộ chạy lóc cóc – âm thanh đầy
bí ẩn…
Những thành phố trong thành phố
Những con hẻm của Sài Gòn là một
thành phố riêng so với phố xá khác biệt bên ngoài. Xoay quanh và đan xen với một
Sài Gòn sang trọng là những xóm nhà lao động, nửa quê, nửa tỉnh. Từ Vườn Bà Lớn
chuyển sang Bàn Cờ, tôi lớn lên trong những xóm nhà như vậy. Ký ức của tôi từ
bé đã in đậm những mái ngói âm dương rêu xanh, những mái tôn rỉ sét, những cột
điện sắt đen xiêu vẹo. Giăng giăng khắp con hẻm là những căn nhà nho nhỏ, đủ
màu, khung cửa sổ lúc nào cũng mở. Ngày ấy, hiếm khi có nhà làm cửa sắt, hàng
rào sắt bởi cuộc sống hiền hòa, ít trộm cắp. Nhà nào nhà nấy đều là nhà cây,
nhà gỗ, có cả nhà vách bằng lá dừa nước phơi khô kết lại. Nhà nghèo hơn thì
vách làm bằng thiếc lấy từ các loại thùng… Dù khá hay nghèo, trước căn nhà nào
cũng có băng ghế gỗ hay cái ghế đá để chủ và khách ngồi chơi mát, dưới bóng cây
khế cây xoài. Căn gác gỗ nhà mẹ tôi thuê có chung vách bằng ván thông với hàng
xóm hai bên. Chủ cũ dán giấy báo lên vách, loại báo tiếng Pháp đầy những chữ và
hình vẽ ngộ nghĩnh. Mỗi buổi tối đi ngủ, tôi tò mò nhìn giấy báo trên vách và rồi
những miền đất xa xăm trôi vào giấc ngủ của mình.
Thời ấy, những con đường hẻm Sài Gòn
chưa biết đến xi măng, vẫn còn đầy đất cát. Bọn con nít chúng tôi đi học về, lập
tức vất cặp, chạy ra ngoài rủ nhau bắn bi, đánh đáo, tạt lon, chơi trốn tìm.
Trong xóm, nhà nào cũng nhờ người gánh nước thuê hoặc ra xếp hàng ở vòi nước
công cộng. Đến ngày mưa, người lớn bảo nhau đem lu, đem thùng ra hứng nước. Còn
trẻ con thì khoái trí, cởi trần, chạy ào ra hẻm vừa tắm vừa đuổi bắt nhau. Những
lúc ve kêu, mùa hè đến, con nít đứa lớn đứa bé đều đi bắt dế. Có đứa nuôi dế trong
hộp quẹt, trong bao thuốc và ngay cả vỏ trái măng cụt. Bọn tôi cho dế thi đấu với
nhau, con dế nào “hy sinh”, lại cho vào hộp quẹt chôn cất dưới cây khế rất tươm
tất.
Những năm kế tiếp, khi chúng tôi lớn
lên, các con hẻm bắt đầu thay đổi. Đường trong hẻm được đổ đá dăm rồi tráng xi
măng. Nhiều nhà đã có công tơ nước, công tơ điện. Những cột đèn cao lêu nghêu bằng
nhôm hay xi măng đúc đã luồn lỏi vào trong các xóm. Có điện, có đèn, người dân
lại có thêm máy vô tuyến truyền hình. Ở trước cửa trường tiểu học Phan Đình
Phùng xóm Bàn Cờ của tôi có cột đặt máy tivi công cộng. Lâu dần, giá máy tivi
trở nên bình dân, nhất là khi có tivi do Nhật sản xuất, nhiều gia đình sắm
tivi, vẫn ngỏ cửa cho hàng xóm về xem. Nhiều năm về sau, có dịp đi nước ngoài,
tôi thấy tự hào khi biết vô tuyến truyền hình ở Sài Gòn ra đời và phổ biến cùng
lúc với Singapore và nhiều nước Đông Nam Á khác.
Cô tiên lộng lẫy
Khi chúng tôi lên bảy, lên tám, Sài
Gòn lớn vụt lên, trở thành một cô tiên lộng lẫy. Hai anh em tôi được mẹ đưa đi
gặp “cô tiên” vào những ngày Chủ nhựt. Về sau, tôi mới biết nếu đi làm, mẹ tôi
sẽ được thêm tiền phụ trội nhưng mẹ vẫn để dành mỗi tháng hai ngày Chủ nhựt cho
chúng tôi đi chơi. Mặc vào “bộ đồ Tết”, mỗi năm anh em tôi chỉ có một bộ để diện,
chúng tôi theo mẹ đi dạo những phố phường nhứt nhì thành phố. Nào là, ra chợ Bến
Thành và những con phố tấp nập chung quanh xem đồ chơi, hàng hóa. Nào là, la cà
đường Nguyễn Huệ và thương xá Tax xem đèn, xem hoa vào mùa Giáng sinh và giáp Tết.
Nào là được ghé thương xá Sài Gòn Departo (3) ở góc Thái Lập Thành – Tự Do để
được chơi xe cứu hỏa mini, bóp kèn inh ỏi. Hai anh em tôi vừa tung tăng trên hè
phố rộng, vừa nhâm nhi hộp kem bé xíu. Mẹ cho anh em tôi chụp ảnh trắng đen,
vài năm sau là ảnh màu, ở công viên Lam Sơn. Bây giờ nhìn lại ảnh, tôi nhận ra
cái góc phố cong cong có quán Givral phía sau, cũng chính là nơi mẹ chụp ảnh
khi mới đến Sài Gòn 15 năm trước.
Mẹ còn cho hai anh em ra Bến Bạch Đằng,
ngắm nhìn hàng dãy tàu chiến, súng to súng nhỏ oai vệ. Tôi nghĩ đến bố tôi, ở
nhà mẹ vẫn còn giữ một tấm ảnh chụp ông và các anh lính hải quân ở Nha Trang
năm 1951. Lâu lâu, hai anh em được đi chơi Sở Thú, dạo một vòng các chuồng cọp,
chuồng khỉ, chuồng gấu. Ở đấy, tôi thích nhất các chú voi, thế nào tôi cũng đòi
mẹ mua mía và đút mía cho voi ăn. Sở Thú Sài Gòn còn là khu vui chơi của trẻ
em, ở đó có lâu đài như kiểu Disneyland thu nhỏ. Đặc biệt, Sở Thú có xe điện
treo trên cao, loại xe dành cho trẻ em chỉ đi khoảng 100 mét. Gần cổng Sở Thú
là Viện Bảo tàng, khi về tôi hay chạy ào đến khẩu thần công trước cửa để leo
lên ngồi, hể hả như cỡi voi ra trận.
Tết Trung thu đến, tôi cương quyết
đòi mẹ mua cho đèn máy bay, tàu bò chứ không chịu chơi đèn con thỏ, con bướm của
bọn con gái. Lồng đèn Sài Gòn tạo hình bằng nan tre, bọc giấy kiếng đỏ, điểm
xuyết những nét sơn hồng, sơn xanh, lấp lánh suốt tuổi thơ. Những đêm Trung
thu, bọn trẻ xóm tôi kéo nhau đi reo hò, hát vang : “Tết Trung thu rước đèn đi
chơi… Em rước đèn mừng đón chị Hằng”. Nhưng chị Hằng ở đâu mà phi thuyền Apollo
của Mỹ đáp xuống cung trăng năm 1969 không thấy? Chúng tôi hiểu ra chị Hằng,
chú Cuội không có thật, song ngày vui Trung thu thì không bao giờ mất!
Chuyện Apollo và loạt phim Star Trek
trên tivi Mỹ với nhân vật lỗ tai lừa quái dị, là chuyện bọn con nít chúng tôi
bàn tán không hết. Sau buổi học, trưa chiều nào chúng tôi cũng tụ họp dưới cây
khế trong hẻm, chơi bi hay tạt lon và kháo chuyện. Đứa nào đứa nấy khoe chuyện
trong trường và cả chuyện ba má cho đi chơi vòng quanh Sài Gòn. Toàn là chuyện
mới lạ, hấp dẫn hơn cả bánh kẹo. “Ăn” mãi chưa đã thèm!
Sài Gòn ngày ấy cứ như chiếc kính vạn
hoa, mỗi lần chạm đến lại thấy nhiều điều kỳ thú chưa biết đến. Sài Gòn bây giờ
mong rằng cũng vẫn là thế giới muôn màu, thành phố đáng sống và hấp dẫn!
Phúc Tiến
Nguồn: Người Đô Thị - từ trang DĐQGHCUC
Bờ Sông Cũ - Quan Dương
Bờ Sông Cũ
Hai trái
tim khờ khạo đè lên nhau
Một trái nằm trên một trái nằm dưới
Bờ sông cũ lùm tre xanh ngái ngủ
giật mình thả chiếc lá rơi
Em có nghe gió đang trải mùa hè
lên hai trái tim khờ loạn nhịp
Chuyện của mình đã không còn bí mật
Con ve sầu nhìn thấy trên lùm tre
Ba mươi năm tưởng mới hôm qua
Anh trở lại bờ sông thời hé nụ
Cỏ đã không còn xanh như cũ
Nhưng lùm tre ngày nào còn sót mùi hương
Khoảng cách hai bờ đo một bàn chân
Anh lội đã cuối đời chưa qua hết
Em ở bên kia bờ ngun ngút
Con đò chìm sau khi em qua sông
Có bao giờ em nhớ chuyện trái tim
Dưới lùm tre đập cùng nhau thấp thỏm
Trên thảm cỏ gió trải hè làm chứng
cho một ngày đau thắt tiễn em đi
Ba mươi năm chưa dụi được trong nhau
Mùi hương cũ giờ trở thành hương nhớ
mút hai bờ giăng ngang như sợi chỉ
Mỏng mong manh nhưng chưa đứt bao giờ
08/07
Quan Dương
Nửa Đời Chum Vại - Nguyễn Xuân Nghĩa
Nửa đời chum vại
“Người đi ừ nhỉ người đi thật”
Thâm Tâm
Anh không thật sự tập trung. Túi đồ nằm
kềnh càng trên gác ba ga xe đạp rơi đánh phịch xuống đất, ngay mép vỉa hè, nơi
có một rãnh nước đen ngòm chảy rí rách. Đó là một chiếc túi cỡ lớn. Màu xanh thẫm,
mới tinh, dưới đáy có gắn ba bánh xe bằng nhựa để kéo chạy trên nền phẳng. Chị
rảo đến xuýt xoa. Vừa sợ nước bẩn ngấm qua túi vào đồ, vừa sợ một chiếc túi
không được sạch sẽ giữa nhà ga hàng không choáng ngợp và bóng lộn từ con người
đến hành lý.
Anh đã kịp nhấc chiếc túi đặt lên vỉa
hè, chỗ sạch nhất, hi sinh chiếc khăn bông nhỏ quay vào nhà thấm nước kì cọ sạch
bong chỗ bị dính đất. Mặt anh ngờ nghệch nụ cười hối lỗi. Chiếc túi khá nặng.
Toàn bộ tài sản cá nhân của chị nằm trong đó. Chị ít may sắm. Đã may là bền và
đẹp. Vài ba năm nay, kinh tế gia đình sa sút, chị không may sắm được gì. Bù lại,
cô em ruột, hai em họ và vài người bạn coi chị là kho chứa đồ siđa. Thứ họ bỏ
đi, vào người chị bỗng đẹp và sang, khiến có lần họ muốn đòi lại. Anh bảo chỉ
nên mang theo vừa đủ. Sang bên ấy phải sắm thêm cho đúng cách ăn vận của người
ta. Chị nói, ở nước ngoài quần áo rất đắt. Không nên làm hao hụt tiền lương vì
chuyện may sắm. Túi đã căng, chị cố nhét thêm bao nhiêu thứ nữa: lược to, lược
nhỏ, lược tròn, vài lọ son, phấn, một máy sấy tóc, cùng một vài đồ nữ công gia
chánh khác. Anh tìm chỗ đặt vào hai quyển sổ ghi chép. Một cuốn có bản đồ Trung
Quốc và đảo Đài Loam. Một cuốn sổ túi trong đó anh đã chép sẵn các số điện thoại,
các địa chỉ chúng bạn chị cần. Một tập giấy trắng, ít bút bi, hai chục chiếc
phong bì để đến nơi chị có thứ viết thư ngay. Anh còn nhét được cho chị hai chục
túi mì ăn liền. Cô em cho chị hai cân ruốc thịt, phòng chưa quen cơm thịt cứ
người chị có đồ ăn bổ sung. Giúp chị thu xếp quần áo đâu vào đấy, nhìn chiếc tủ
rỗng huếch, rỗng hoắc, chỉ còn dăm thứ đồ của ba bố con ở lại, anh lặng đi một
giây.
Chị không dám nhìn vào tủ. Nếu chị có
thể mở chiếc túi, treo lại quần áo cho đầy tủ như cũ? Không! Chị phải đi! Cuộc
đi này là con thuyền Noel của gia đình chị. “Nhất tội nhì nợ”. Nếu quần áo của
chị được treo vào cho đầy tủ như cũ… Đã nợ biết đâu còn thêm tội!
Chị phải đi, dù đã tìm gặp hai người
đi đợt đầu tiên phải khứ hồi: “Không chịu nổi đâu chị ơi…” Tim chị nhói lên khi
nghe lời cảnh báo. Rồi chị hy vọng. Biết đâu, xác suất sẽ cho chị vào giúp việc
một gia đình tử tế.
Mà dù không được như thế chị cũng phải
cắn răng chịu. Đường quay về không có cho chị như hai người kia. Lương cơ bản
500đô/tháng. Trừ đi 12% cho công ty môi giới phía Việt Nam, 36% cho công ty môi
giới và thuế thu nhập phía Đài loan, 100đô/tháng chủ nhà giữ lại để khấu trừ nếu
bị người ở đánh hỏng vỡ đồ vật, chị vẫn còn 130đô/tháng. Sau 10 tháng được gần
gấp đôi. Nếu được làm cả chủ nhật thì còn hơn. Đó là giấc mơ của mọi giấc mơ với
đa số người như anh chị ở VIệt Nam. Cho nên chị phải cắn con mồi, không cần biết
phía trong có ngạnh hay không. Ba lăm triệu chi phí cho chuyến đi làm
Ô-sin-xuyên-lục-địa đã đặt lên quân bài cuối. Trước đó anh chị nợ nần 100 triệu
vì kinh doanh thua lỗ. Luật trong và luật ngoài, nghị định và chỉ thị, chiếm dụng
vốn và lãi suất vay… mọi con đường đều dẫn đến thua lỗ. Đêm đêm trong căn nhà
nhắm mắt đi từ đầu đến cuối không chạm phải vật gì, anh chị mơ thấy đám khủng
long chủ nợ đang há mồm chực ngoạm di từng bức tường. Tấm biển bán nhà trưng
lên thừa nhận “bước đường cùng” của chủ nhân. Thừa nhận sự hạ nhục không thể
che đậy. Trần, tường không buồn quét, nhện tha hồ chăng lưới bắt mồi. Ti-vi bị
bắt nợ, cột ăng-ten đổ xiêu vẹo. Nhìn tư xa căn nhà như phế tích. Tiếng dao thớt
trong bếp thưa dần. Nhặt dần, to dần tiếng khóc của đứa con trai út đòi tiền
đóng học. Anh chị dúm dó như sâu trước mỏ chim mỗi khi nghe tiếng xe gắn máy tạp
vào cửa. Nếu may mắn không phải chủ nợ mà là bạn hữu ghé thăm, họ cố bằng được
nụ cười, nhìn kĩ như đang mếu “Nửa đời ngơ ngần văn chương/Bây giờ phố chợ hè đường
ngu ngơ”. Đã ngu ngơ còn ham “xoá đói giảm nghèo”. Anh thừa nhận đó là hai cái
ngu. Bây giờ sa cơ lỡ vận đến nước này rồi. Anh đầu hàng rồi! Bất khả kháng rồi.
Từ bỏ vai trò làm đàn ông trong gia đình rồi! Nếu ở Việt Nam có người chịu tự tử
khi vỡ nợ thì anh cũng làm theo họ. Gánh nặng bốn miệng ăn, học, điện, nước, ma
chay, phúng viếng, cỗ, đám, tu bổ đình chùa, công nhận di tích lịch sử, văn
hoá… đè nặng lên vai mình chị. Cửa hàng cho thuê băng viđeo không còn vốn cho đầu
vào, đầu ra cạn kiệt. Không tiền làm đăng kí kinh doanh, không tiền nạp thuế…
không tiền nạp bản quyền… là thứ mật đối với những chú ong chức trách. Lúc chị
bị phạt năm bảy trăm, lúc bị tịch thu dăm bảy chục cuốn băng… Bây giờ cái tủ
băng chỉ còn làm vật đỡ trống nhà. Một dạo anh xoay sang làm thợ sắt xây dựng.
Được bốn tháng thì công trình lên đến tầng sáu. Nhìn một gã trung niên lẻo khoẻ
vác những cây sắt nặng lập bập đi ngả nghiêng trên giàn giáo cao tít như con
chim không biết bị bắn hạ lúc nào chủ công trình phải bảo: “Anh đã có tuổi
“bay” từ trên đó xuống, chết em”. Anh bạn nhiếp ảnh mách trường X đang cần bảo
vệ. Anh mừng như mở cờ. Ba trăm một tháng là được rồi! Hai trăm anh cũng chơi!
Hai người đạp xe mười lăm cây số. “Có người đứng tuổi như anh, hiểu biết như
anh… như anh. Hèn nỗi anh không đến sớm hơn người ta…”. Đang lúc không còn một
phần nghìn tia hy vọng thì cô dì ở HD xuống thì thầm với vẻ mặt của vị cứu rỗi:
– Trên em đang tuyển người đi Đài
Loan làm Ôsin. Không ai dám cho chị vay tiền trả nợ. Nhưng có thể cho vay xuất
ngoại làm ăn. Mình làm công ăn lương. Được đồng nào chắc đồng ấy. Nếu chị chịu
đi, em vận động họ hàng cho chị vay mỗi người một ít.
Chị chấp nhận cái phao của cô em. Chị
gặp một ít cơ may ban đầu. Người ta thông báo chỉ tuyển ô-sin đến tuổi 40, chị
đã 44, phải khai rút tuổi để được vào dự tuyển. Hai ông môi giới người da vàng
Đài loan thành hai ông chủ da trắng ở chợ da đen thế kỉ 16. “Hảo! Hảo!”** Thế
là chị không phải nợ thêm năm trăm nhìn phát sinh từ khoản gian lận tuổi trong
chứng minh thư và hộ khẩu. Chị vừa học tiếng Trung Quốc, học chăm sóc y tế, nấu
cơm, lau nhà… theo cách Đài Loan ở HD, vừa tất tưởi đi tàu về nhà cùng anh làm các
thủ tục. Xin công chứng uỷ quyền chuyển nợ từ chị sang anh: tiền! Xin giấy chứng
nhận có hộ khẩu ở địa phương: tiền! đơn xin cấp hộ chiếu: tiền! (Trời ơi! Một bản
án vu khống nếu cứ kể lể mãi thế này). Anh tỏ ra chán chường. Chị động viên:
– Đã đâm lao phải theo lao anh ạ!
Cũng có lần chị không cho anh đi
cùng. Anh không biết tuỳ cơ ứng biến. Anh là người xứ Nghệ “ki bo”. Anh lại có
thẻ Hội viên Hội nhà văn. Liều mạng chìa ra là hỏng hết việc của chị. Vừa nặng
trĩu tâm lí vì mớ bòng bong thủ tục, giấy tờ, vừa nặng trĩu vì tình cảm. Chị cố
tỏ ra cứng cỏi:
– Quay đi quay lại, ba năm đánh cái
vèo!
Chị biết,anh biết. Họ phải dối lòng.
Không gì trớ trêu hơn kẻ giả vờ tin lời nói dối. Thời gian chỉ nhanh với người
vô tâm, vô sự. Không còn ở tuổi hương đậm lửa nồng, anh chị vẫn là một cặp có
trái tim vàng đá với thời gian. Những năm hoạn nạn gắn kết họ thêm trên bình diện
lương tâm và trách nhiệm. Anh đã năm hai, chị bốn bốn. Đây là những năm cuối
cùng của tuổi làm đàn ông, đàn bà mà tạo hoá xót thương, bố thí thêm cho những
đôi uyên ương chưa chịu mãn chiều xế bóng. Vào tuổi này người đàn bà đang hồi
xuân. Nhu cầu yêu và được yêu hoàn nguyên. Vả lại, đời chị gọn trong bốn chữ:
yêu chồng, quý con. Chị chỉ xa nhà một lần khi vào Sài Gòn thăm nuôi chú em rể
bị hạn. Thế mà lần này chị phải xa chồng xa con ba năm. Phải khổ sai nơi đất
khách quê người, làm một thứ nghề nói thẳng ra là đi ở. Thứ nghề cha anh chị đã
đổ bao nhiêu xương máu để triệt tiêu ở Việt Nam, lại còn hô hào triệt tiêu trên
toàn thế giới. Chị nói:
– Từ ngày lấy nhau mình chưa bao giờ
hết khổ. Thời bao cấp khổ đường ăn, đường mặc. Đến thời mở cửa khổ đường nợ nần.
Anh nói:
– Từ vị trí chủ nhà rơi xuống vị trí
người đi ở, lại ngôn ngữ, tập quán bất đồng…
– Vậy thì em ở nhà để anh lo. Chị dỗi
và chực oà khóc. Cái nhà này bán đi chỉ đủ giả nợ. Lấy tiền đâu mua nhà khác! Lại
không cảnh vợ chồng con cái mỗi người một phương, đi ở tuốt tuột.
Anh im lặng. Chị im lặng. Hai đứa con
im lặng. Anh lo cho chị. Công ty Sesucô nào đó trong Sài gòn đưa đi một trăm
Ôsin phải đưa về năm mươi người. Không lẽ tỉ lệ phụ nữ Việt Nam lười biếng, vụng
về, vô học cao đến thế? Thêm nữa anh buồn vì câu đùa sắc như dao của một thị
hàng xóm dậu đổ bìm leo: ‘Bà này sang dấy ông chủ chỉ có mê tít. Ai nhìn thấy
ma ăn cỗ? Ông chủ dấm dúi với con ở đời nào, nơi nào chẳng có!” Chị không đối lời
sợ rách việc. Anh cười “vô tư” cho trôi cục cơm đang phình lên trong thực quản.
* * *
Phụ xe, một thanh niên mới ngoài ba
mươi, da đen, ria mép con kiến nhìn lướt qua những vị khách đưa tiễn đã yên vị
trên ghế, vẻ mặt cau có, hách dịch:
– Trung tâm chỉ hợp đồng thuê chúng
tôi chở bốn Ôsin. Ai đi tiễn xin mời xuống!
Chủ xe, người lớn tuổi hơn và nhã nhặn
hơn:
– Các vị nói gì thì nói với nhau bây
giờ đi! Lên sân bay cũng chuyện ấy mà thôi.
Xe tám chỗ ngồi. Bốn Ôsin, bốn người
đưa tiễn. Tất cả đưa mắt nhìn nhau đun đẩy. Là người nhiều tuổi nhất trong xe,
anh phải lên tiếng:
– Hai chú thông cảm, chúng tôi sắp xa
nhau ba năm, hàng ngàn, hàng vạn cây số. Không lẽ không cho chúng tôi đưa nhau
được đến Nội Bài.
Ai cũng biết công ty môi giới thuê xe
cả gói. Mỗi Ôsin được hưởng tiêu chuẩn một người đưa tiễn. Vậy mà nhà xe, ngày
cuối cùng, khi họ đang cần những điều đẹp đẽ về tổ quốc, quê hương để ba năm
dài đằng đẵng mà nhớ, mà thương, mà kính trọng lại gợn bẩn lên vì phải chi tiếp
những đồng tiền vô lý. Lời cầu khẩn của anh giúp nhà xe thức tỉnh. Cả lái và phụ
xe lụng bụng làm nốt công việc chuẩn bị.
Anh bắt đầu thấy lạ. Ngoài anh ra,
trong ba người đi đưa tiễn còn lại, có hai người đàn ông, lại đều không phải là
chồng. Thế chồng của hai người Ôsin kia đâu? Sao không đi tiễn mà để anh trai của
vợ đưa đi? Từ ngoài cổng, một cô gái hớt hải chạy vào, tay bế một đưa bé độ hai
tuổi. Cô nhấc cao đứa bé để nó nhìn vào xe:
– Mẹ kìa! Cháu chào mẹ đi!
Thằng bé bé ngả người vào xe mếu máo
gọi: “Mẹ ơi!”. Cô Ôsin trẻ ngồi trước anh chị cuống quýt đứng bật dậy đỡ con. Cả
khối hai mẹ con suýt ngã nhào xuống lối đi. Hình hài và cách ăn vận của thằng
bé chứng minh nó thiếu sự chăm sóc. Hai cánh tay gầy, xanh xao của nó ôm riết cổ
mẹ, miệng vừa nấc vừa khóc như đang chịu nỗi oan uổng ghê gớm. Người bác trai
ngồi phía sau vỗ về: “Nín! Nín! Mẹ đi rồi mai mẹ về với cháu”. Tiếng “đi” khiến
nó khóc thê lương hơn. Nó biết điều gì xảy ra nếu để ông bác gỡ được tay ra khỏi
cổ mẹ.
– Khổ quá! Người phụ nữ đưa tiễn nói-
Đã không có bố, giờ lại không có mẹ.
Anh tò mò hỏi chị. Hai ôsin cùng bay
chuyến vợ anh đều có hoàn cảnh như nhau. Không công ăn việc làm. Một người chồng
bỏ. Một người chồng chết. Gạt chuyện công nợ sang bên, anh chị còn đỡ khổ hơn.
Đứa út của anh chị đã mười hai tuổi. Vắng mẹ còn bố, còn anh, còn trường lớp.
Nó đủ khôn để không khóc nếu được đi tiễn. Anh không hiểu thằng bế này đã biết
thế nào là ba năm chưa mà vật vã đến như vậy? Người bác mắng cô gác đứng tẽn tò
dưới đất:
– Đã bảo mày đừng bế nó ra!
Mắt người mẹ mọng nước. Cô giấu mặt
vào ngực con. Những giọt nước nặng trĩu rơi xuống đùi. Không ai nghe tiếng máy
xe đã nổ. Không ai nhìn thấy khuôn mặt của người lái, phụ xe quay xuống cau có.
Anh nhìn sang chị. Chị nhìn ra ngoài. Sao cuộc xuất ngoại của họ không được giống
của người khác: bụng phệ, mông to, nụ cười mãn nguyện, lên xuống xe nhẹ tênh,
thư thái, tự tin, không bìu ríu người đưa tiễn, như chỉ đi công chuyện chốc lát
rồi về. Anh nhớ lại câu chuyện của chị:
Phòng tuyển. Từng người một được gọi
theo số báo danh lên bàn vấn đáp. Công ti môi giới muốn cho đám đàn bà Ôsin thấy
cuộc dự tuyển khắt khe, dẫn đến cuộc xuất ngoại cũng không kém phần vinh hạnh.
Người hỏi là một vị phó giám đốc tuổi đã trung niên Người được hỏi là một phụ nữ
nửa tỉnh, nửa quê. Không biết bạn nào xui mà lông mi phơn phớt đen, môi phơn phớn
hồng.
– Cô làm nghề gì?
– Em bán hàng quà!
– Hàng quà hay karaoke?
Tiếng cười rộ lên(?). Người dự tuyển
cắm mặt xuống bàn. Thế đấy! Ngay ở cố hương họ đã bị hạ nhục rồi. Đồng loại đã
hạ nhục họ rồi, nói chi ở xứ người. Họ không có cơ hội để nói rằng tôi sang đây
để nghiên cứu khoa học hoặc để kinh doanh chứ không phải đi ở. Không phải để
dùng mồ hôi (và có thể cả phẩm hạnh) đổi lấy Đài tệ khả dĩ có thể vén được một
khoảng trời nho nhỏ cho quãng đời còn lại của họ, của con cái họ…
Xe chạy. Tiếng máy như từ quá khứ vọng
lại, âm u, buồn nản. Tiếng khóc của đứa trẻ đã trôi về phía sau. Đã bị đóng
đinh vào kí ức. Đã bị đào sâu, chôn chặt vào đáy lòng người đi. Phía trước họ
là Hà Nội. Là Nội Bài. Là Đài Loan sau ba giờ rưỡi bay. Trời đổ mưa. Thứ mưa nặng
hạt cuối xuân. Không gian đặc quánh hơi nước. Người đàn ông ghế bên hỏi bâng
quơ.
– Không biết bên họ chênh với bên ta
mấy giờ?
Anh cầm tay chị nhấc cao để nhìn đồng
hồ. Mười bốn giờ. Vậy là anh còn nhìn thấy chị hai giờ nữa. Hai mốt năm lẻ họ
đã gần nhau. Đã lặn vào nhau thành hình hài, tiếng khóc, tiếng cười của hai đưa
trẻ. Hai giờ đồng hồ còn lại chẳng là bao so với hai mốt năm. Hai mốt năm chẳng
là gì so với ba năm phía trước. Ngày mai vợ mình ra sao? Chồng mình ra sao?
Mình ra sao? Tuổi trẻ chỉ có nhu cầu yêu đương. Vợ chồng còn nhiều nhu cầu
khác: nhu cầu được biết người bạn đời của mình đang làm gì, nghĩ gì. Nhu cầu được
chia sẻ lo toan. Bây giờ cả anh và chị thấy sợi dây giữa họ đang căng dần theo
bước giật vô cảm của kim đồng hồ để hai giờ nữa sẽ đứt, thả mỗi người về một
góc trời.
– Em vào nhà có người bại liệt đã sáu
mươi tuổi. Chị vào nhà nào?
– Chị vào nhà có cửa hàng kim khí.
– Em sợ vào phải nhà chủ khó tính.
Người Đài Loan có tốt không nhỉ?
Họ hỏi nhau, hỏi mình không biết đã
bao nhiêu lần. Câu trả lời thuộc ngày mai, không có ở hôm nay.
“Bạn có đòi chủ thanh toán tiền lương
khi chưa đến hẹn không?”. “Bạn có tiếp khách của bạn khi chưa được chủ đồng ý
không?”. “Bạn có tự ý sử dụng điện thoại của chủ không?”. “Bạn có…”. Có thể vẽ
chân dung người Đài Loan qua những câu họ trắc nghiệm mình không? Trí não chị
trồi lên tụt xuống những dòng chữ trong thư của người ôsin đi trước: “Ngày làm
việc của em bắt đầu từ 5giờ 30 phút. Kết thúc lúc 10 giờ đêm. Có lần đến tận 12
giờ đêm. Ông bà chủ của em có một biệt thự ba tầng. Biệt thự có hai phòng
khách, sáu phòng riêng, bốn toa-let. Tất nhiên có cả nhà bếp. Họ sạch lắm! Yêu
cầu vệ sinh của họ rất cao, Không biết giới thượng lưu của nước ta có nhà nào
cao như thế không? Chắc là không! Cho nên không thiếu gì thứ phải giặt giũ, lau
chùi. Chỉ sợ làm được như ý họ thì thời gian còn lại không đủ cho việc khác. Một
ngày em chỉ được ngồi ba lần. Mỗi lần trên dưới năm phút vào ba bữa ăn. Luôn
chân, luôn tay. Thay băng vệ sinh cũng phải vội. Họ rất căn cơ. Họ bảo Đài Loan
giàu nhờ làm nhiều mà chi tiêu ít. Chị sang, nhớ khi đong gạo và dọn cơm đừng để
rơi, dù chỉ một hạt. Bà chủ của em rất khó tính. Giữa bữa trưa 12 giờ và bữa tối
10 giờ họ ăn trái cây hoặc uống sữa, ca cao kèm bánh ngọt. Mình bận làm họ chẳng
gọi (hoặc không cho) mình ăn. Đến 10 giờ tối em đói hoa cả mắt. Nếu ở nhà với
chồng con, em phải ăn được bốn bát cơm đầy. Ở đây chỉ dám ăn hai. Bà chủ bảo tập
ăn một bát như họ cho quen bụng. Khốn nỗi bốn giờ chiều họ đã ăn trái cây bánh
ngọt no căng rồi chị ạ!
Một bữa nhà ăn bánh bao. Em cũng cầm
cả cái như họ. Đang đưa vào mồm thì bà chủ giật phắt xuống, ra hiệu phải bẻ
đôi. Em gượng cười bẻ đôi đưa vào mồm thì bà chủ giật phắt xuống lần nữa. Em rất
ngạc nhiên và lo sợ. Em thấy em không có sơ suất gì! Đến nay em vẫn chưa hiểu.
Hôm nay chủ nhật cả nhà họ đi
pic-nich, bảo em không nấu cơm trưa cho họ. Mười hai giờ em ăn gói mì tôm mang
từ Việt Nam sang. Ăn xong bụng còn đói và thèm cơm. Em đong nửa bò gạo nấu cơm.
Họ về. Bà chủ đi ngay xuống bếp. Bà thấy trong sọt rác có vỏ gói mì tôm em vừa
ăn. Thế là không cho em nấu cơm nữa, bảo ăn gói mì là đủ rồi. Em lên phòng nằm
khóc. Khóc chán viết thư cho chị. Từ sáng đến giờ là bốn giờ chiều, em chỉ được
ăn một gói mì. Mà là gói mì của mình…”
Có nên tin cả vào những lời của cô bạn
Ôsin đi trước không? Chị nhìn lén chồng. Rời khuôn mặt nhợt nhạt khổ hạnh của
anh, chị hướng lên phía trước. Con đường nờ mịt trong mưa. Mờ mịt trong mắt. Và
mờ mịt ở trong đầu.
* * *
Chiếc Huyndai cỡ lớn nặng nề táp vào
sát bậc thềm ga hàng không Nội Bài. Túa xuống từ hai cửa một đám đông thanh
niên nam nữ tuổi hai mươi, mười chín. Tất cả đều mặc áo Jacket trắng, mũ lưỡi
mèo trắng in hàng chữ Vietracimex. Họ là những người sang Đài Loan làm nghề dệt
may, điện tử. Nhìn họ mà thèm. Những chàng trai nhanh nhẹn vui tươi. Những cô
gái xinh xắn trẻ trung. Hành lý được gỡ xuống. Va ly to. Túi du lịch lớn. Va
ly, ca táp xách theo người. Chưa đến giờ làm thủ tục Hải quan,. Họ túm tụm dọc
hành lang, nói cười ghi chép, bắt tay nhau, bắt tay người đưa tiễn, đi lại như
mắc cửi.
Khoảng mười phụ nữ tuổi 30-40 bước xuống
sau cùng. Họ lặng lẽ nhận hành lý. Lặng lẽ đứng riêng một góc. Người đưa tay vuốt
tóc, gài lại cặp. Người lấy lược chải. Người mở túi xách tay lấy gương, mỹ phẩm
trang điểm qua quýt. Họ là những Ôsin Công ty môi giới tuyển trực tiếp, là F1,
không như bốn người F2, phải qua một chiếc cầu nữa, chịu thêm một khoản môi giới
nữa.
Bốn Ôsin được phát đồng phục. Nhà ga
toàn màu trắng. Anh đi toa-let trở ra ngỡ mình lạc mất vợ.
Hành lý được đặt vào xe đẩy. Tất cả
thứ tự xếp hàng.
Nhóm thanh niên điện tử dệt may xếp đầu.
Trước mắt họ có thể là tương lai. Nhóm Ôsin xếp sau cùng. Phía trước họ chắc chắn
là những năm tháng bị bứt khỏi cuộc đời chồng con đang liên tục.
Hàng người chậm dần, chậm dần đi vào
phía trong. Chị đi gần sau cùng.
Nhìn phía sau ai chẳng giống ai: áo
trắng, mũ trắng, tầm vóc thấp bé Đông-Nam-Á. Có lúc anh lẫn chị. Đó phải chăng
là bước chuyển tiếp từng khoảnh khắc đến ba năm vô tận?
Chị quay lại lần cuối cùng. Giơ tay
lên lần cuối cùng. Khuôn mặt nhợt nhạt trắng dần, Tấm lưng chị nhoè đi trong khối
màu trắng mờ ảo.
Hỡi những nhà văn mang cái gu cố hữu
khi tả cảnh tiễn biệt: Người đứng dưới cầu thang, người đứng trên cầu thang
cùng giơ tay vẫy. Máy bay rời đường băng. Máy bay thành một chấm nhỏ. Máy bay mất
hút trên bầu trời. Không! Không phải thế đâu! Ít ra là ở Nội Bài. Không người
đưa tiễn bình dân nào được bước qua cửa sau phòng đợi.
Nghĩa là người ra đi dù đang ở cố
hương đã xa cách người thân rồi.
Anh hụt hẫng bước ra sân. Tuổi trẻ
chia ly như tảng thạch cao đang mềm xẻ đôi. Có thể vo tròn thành hai khối. Anh
chị đã bị nung thành chum vại rồi. Mãi nguyên si hai nửa thiếu. Chờ cuộc đời đặt
lại bên nhau.
Anh nghĩ đến nửa khối cầu vừa bị vỡ
đang văng vun vút về phương bắc sau cú va đập số phận. Anh thấy một mặt nước
bao la, mờ mịt:
Nỗi khổ lớn như biển
Em là con thuyền con.
Cứ bồng bềnh như thế.
Cánh buồn ơi, cánh buồm!**
Và anh quả quyết bước lên xe…
* Tốt! Tốt!
** Thơ: Trịnh Hoài Giang.
Nguyễn Xuân Nghĩa
Thursday, December 4, 2025
Người Ni Cô Tôi Biết - Thuyên Huy
Người Ni Cô Tôi Biết
Chuyện tự dựng - mượn một số địa danh
thật
Từ ngõ vào chùa
ngoài đường lộ vô, chùa Thiền Sơn, mái ngói âm dương rong rêu, cổ kính, nằm lẻ
loi giữa những cây Sao già, cao ngời ngợi, cách xóm nhỏ cuối làng một cánh đồng
khoai mì, xa chợ xã chừng vài cây số, buổi sáng, trời giữa hạ nhưng tàng nào
tàng nấy vẫn lá với lá, xanh vàng chen nhau trong nắng sớm vừa lên.
*
Tới cổng, cái cổng
cây cao kín hơn đầu người, tôi đứng khựng lại nhìn vào, phía sau chùa, rải rác lưa thưa ba bốn người,
lom khom trồng gì đó, chưa kịp lên tiếng gọi, từ hậu liêu đi ra, người ni cô trẻ,
đầu chít khăn cùng màu nâu bạc của cái áo thụng nâu sồng đi ra, tôi vẫn đứng
ngoài cổng, ni cô tới, tôi cúi đầu chào, cô nhìn lên, bên trong có tiếng chuông
vọng ra nho nhỏ, bước vào, gọi nhỏ “chị Mến”, ni cô cười nhẹ, cái cười của
bảy tám năm trước đây, buổi chiều ở quê nhà, khi chị đi ngang sân chùa Trúc
Lâm, đưa cho tôi miếng bánh bò lá dứa, lúc tôi đứng nhìn trời xa xa, nhớ nhà,
buồn muốn khóc, cái khóc của thằng nhỏ mới lên mười, mà tôi không quên được.
Đi bên chị, bây giờ
là ni cô Diệu Duyên, chị không nhìn tôi, chỉ nói khẻ, cái nói khẻ mừng thầm “A
Di Đà Phật, Duy, em vẫn khỏe hả”, xúc động dâng lên ngập người, bổng
dưng muốn khóc, tôi cười đáp, cười nhưng mắt mình ngấn lệ “chị Mến chị
khỏe không”, ni cô Diệu Duyên, quay mặt đi, lặng thinh. Trời nắng rực lên
giữa sân, con đường nhỏ, lát gạch nâu cũ ngả màu, ngõ đi vào hậu liêu, đám bông
Mười Giờ hai bên he hé nở, cả hai, chị và tôi vẫn im lặng.
*
Đậu vào đệ Thất trường
quận, nhà nghèo, má một đời làm phu cạo mủ, ba mất từ hồi nào tôi không biết và
má cũng chưa một lần nhắc tới, không quen biết ai, làm sao đây, ước mơ nhỏ nhoi
của phận mình là muốn con học, để mai sau đổi đời, khổ như mình quá đủ rồi, nhờ
má ăn ở hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ nên bà con chòm xóm cũng thương, may nhờ bà
bác góa chồng, tu tại gia, ở cuối chợ xã, chỉ cho đường xuống, gởi tôi ở cái
chùa giữa phố quận, ông sư già dưới đó tốt bụng lắm, người tu hành mà.
Cũng cái áo bà ba bạc
màu bùn, cái áo ít khi bận, chỉ để khi nào có chuyện gì đó mà có với người ta,
nhưng nếu đếm đầu ngón tay thì có lẽ nó chỉ được má bận chắc không hơn ba lần,
sáng sớm trước ngày tựu trường, tay xách tay mang hai ba cái giỏ lát đựng mấy bộ
quần áo đồng phục mới, thêm áo quần cũ bận ở nhà và vài thứ lặt vặt, dép giày,
của tôi, đón xe lam xuống quận.
Tôi ngơ ngác nhìn
xe cộ đường xá, đi theo má, ngôi chùa được người ta chỉ kiếm không khó. Gặp một
chị đứng quét lá trong sân, có tượng ông Phật cao hơn đầu người, đưa vào gặp
ông sư già, đang đi loanh quanh mấy cụm bông Sứ vàng bên hông chùa, má cúi sát
người, tôi khoanh tay làm theo. Ông sư ngồi xuống cái băng ghế cây dài giữa
sân, hai má con ngồi bên theo lời ông bảo. Câu chuyện xin cho tôi được ở trọ đi
học chấm dứt không lâu sau đó, trời nắng lên, má ra về, ông sư già đưa tới cổng,
ông nhè nhẹ nắm tay tôi, nhìn theo, má đi xa cứ ngó lại, hình như má khóc, ông
sư vẫn để yên cho, tôi òa lên khóc.
*
Buổi chiều, đi học về,
vào học chừng hai ba ngày, đứng ngơ ngơ, lẩn thẩn ngoài sân chùa, nhìn người
qua người lại trên đường ngoài rào, trời còn nắng, nhớ nhà nhớ má cứ thút tha
thút thít mà không biết làm gì hơn, đi tới đi lui, nghe tiếng ai đó gọi “em
ơi” ngoài đường vào, tôi quay ra, một chị gái, chắc khoảng mười tám mười chín
gì đó, tới sát bên hàng rào gạch, làm dấu lại gần, chị cười thật tươi, đưa cho
cái bánh bò lá dứa, bảo cầm ăn, tôi bỡ ngỡ, chị luôn miệng “không ăn thì cất
đi chút nữa ăn”. Tôi cám ơn cầm lấy, chị chỉ chị ở nhà bên kia đường, cái
nhà cây nho nhỏ, nằm khiêm nhượng giữa mấy căn nhà gạch hai bên, chị hỏi tên,
không hỏi thêm gì nữa, bỏ băng qua bên kia, tôi nhìn theo, lần nữa chị quay lại
cười, trong đầu óc của thằng con trai mười tuổi thì chị đẹp lắm. Hết một tuần học
đầu tiên, sáng thứ bảy má xuống quận sớm, má con mừng vui, đón xe lam về nhà
chơi, ngồi bên má trên xe mà vừa thấy vui vừa thấy thương má, thương cái áo bà
ba màu bùn nâu bà đang bận.
*
Chị Mến, mồ côi cha
mẹ từ nhỏ, sống với bà ngoại từ đó tới giờ, bà ngoại bị tật ở chân, đi khập khiểng,
phải chống gậy, tuổi chắc cở ông sư già, giờ thấy già yếu lắm, bà chỉ đi lẩn quẩn
trong nhà, lâu lâu cố bước ra sân trước, cho có chút nắng, tôi nghĩ vậy, hai bà
cháu hiền lắm, ai cũng mến, chị thường chạy qua bên chùa, phụ cái này giúp cái
kia, dọn dẹp chỗ này chỗ nọ nên ông sư thương chị như con cháu.
Chị có đi học nhưng
học tới lớp đệ Ngủ thì nghỉ vì cảnh nhà túng quẩn, bà ngoại không còn mạnh, hết
bệnh này tới bệnh kia, không đủ khỏe để ngồi đan lưới, bán cho ghe xuồng dưới
chợ, chị xin vào làm phụ bán hàng cho tiệm bán gạch ngói, xi măng, vật liệu xây
cất lớn nằm dọc bên đường quốc lộ, cạnh hàng rào bến xe quận, sáng đi chiều về
từ mấy năm nay.
Chạy ra chạy vô bên
chùa, nghe ông sư già nói, hỏi han qua lại tôi, chuyện ăn ở học hành, cũng mồ
côi nhưng may hơn chị là tôi còn có má, thấy thằng nhỏ ngồi ăn cơm với tương
chao, dưa cà mà thương nên chị cũng thường xin ông sư cho tôi qua bên nhà ăn
cơm với chị và bà ngoại.
*
Vài tuần sau, không
biết chị nói gì với ông sư già, sáng sớm thứ bảy, ngày má tôi xuống đón về nhà,
chị cùng tôi đứng chờ trước cổng chùa, chỗ tôi thường đứng, về nhà như mấy lần
trước, tôi đã nói, không đầu không đuôi về chị Mến nên khi gặp nhau, hai người
vui vẻ, chị chị em em tự nhiên, bớt ngại ngùng. Má ở lại hơi muộn, chị đưa má
và tôi ra tiệm cơm ngoài ngã ba, đầu đường xuống chợ quận, ăn hủ tiếu, bánh
canh, bà e ngại chối từ nhưng chị nhứt định phải đi. Trở lại chùa, hai người vô
gặp ông sư già, tôi đứng lấp ló ngoài cửa hậu liêu, không biết người lớn nói
gì, chập sau đi ra, có ông sư già theo ra, ai nấy cũng cười.
*
Chủ nhật hôm sau má
đưa tôi xuống quận sớm hơn thường lệ, chị ra đón rồi hai người dắt tôi vô chùa
như hôm qua, cũng vào gặp ông sư già, má với chị lăng xăng, gom góp đồ đạc,
mùng mền của tôi, bỏ vào mấy giỏ lát như ngày khăn gói xuống trường nhập học,
ông sư già nhìn, nhắc cái này cái kia, tôi ngơ ngác, chết trân đứng nhìn. Đâu
đó xong xuôi, má biểu tôi đứng sau lưng, bà cúi xá lạy ông sư già ba cái dài, lắc
tay tôi, cũng như bà tôi khoanh tay cúi người xá lạy ông ba lạy rồi bổng dưng
òa khóc, má và chị mắt đỏ hoe, ông sư già kéo tôi tới sát người, xoa đầu “ở
bên đó ngoan nghe con, buồn thì chạy qua chơi với ông”, giọng từ tốn nhưng
xong câu ông quay mặt đi. Ông theo ra tới cổng chùa, má, chị và tôi băng qua
bên kia đường, quay lại chào ông lần nữa, ông gật đầu, làm dấu “đi đi”. Má
vào nhà thăm hỏi bà ngoại một chập rồi chị đưa bà ra về, tôi qua ở bên nhà chị
từ hôm đó.
*
Từ đó, sáng sớm đi
học, đến trường hay chiều về, có chị đi bên, hai chị em nói cười vang rân trên
đường. Về tới nhà thì ngoại đã hỏi đói bụng chưa. Tình chị em, tình bà cháu
ngày càng gần gũi, khắng khít hơn, tôi cũng bớt nhớ nhà nhưng trong giấc ngủ
đêm vẫn cứ nhớ má, không biết giờ này má ngủ chưa hay chong đèn khuya chờ sáng,
cái xe đạp cà tàng chắc cũng buồn vì thiếu tôi, má đi một mình, sáng tinh
sương, chiều xẩm tối.
Tới cuối năm đệ Tứ,
trường chưa có lớp đệ nhị cấp nên tôi phải rời đó chuyển lên trường tỉnh, lần
này tôi phải xa nhà hơn trước. Tin này làm chị và ngoại buồn hết mấy ngày, tôi
cũng không hơn gì nhưng không làm sao khác được, bốn năm qua, tôi nhớ rõ từng bữa
cơm, từng ly nước, từng cái nhắc nhở áo quần, cặp sách, của chị và của bà ngoại
lo cho, kỷ niệm vui nhiều hơn buồn của tình chị em, tình bà cháu, không làm sao
tôi quên được. Rồi cũng tới lúc xa nhau, hôm tay xách tay mang đồ đạc, ôm ngoại
ôm chị, từ biệt mà nước mắt tôi rưng rưng, chị tặng cho tôi một cây viết máy
Pilot, có khắc tên tôi và tên chị cùng ngày tháng, món quà tiễn nhau mà cho tới
ngày ra trường đi làm tôi vẫn có nó bên mình.
Tôi lên xe, chú tài
xế nổ máy chờ, chị cười mà muốn khóc “em về trển ráng học, khi nào rãnh nhớ
xuống thăm chị nghe” vậy thôi, xe chạy đi rồi, chị đứng nhìn theo, tôi bật
khóc “chị Mến ơi”. Hai chị em xa nhau từ hôm đó.
*
Nhà nghèo, sợ má buồn
nên tôi cứ mãi chăm chú, lo học cho được, không hẳn là học ngày học đêm nhưng cố
hết sức mình, bỏ hết chuyện đánh đôi đánh đọ, bè bạn cà pháo cà phê, một phần
lo đi làm, bưng dẹp tiệm quán ngoài chợ tỉnh, phụ tiền cơm áo cho má đở đi lam
lũ, sáng sương nắng chiều mưa dầm, một đời thân người phu cạo mủ, trong suốt gần
hai năm trời.
Đậu Tú Tài Một, nhớ
chị, lâu rồi sẳn vừa thi xong, đón xe xuống quận, trước là thăm lại ngoại và chị,
sau là báo tin vui. Hôm đó chủ Nhật, xuống xe, vừa sắp vào trưa, mùa hạ, trời
nóng, không ngó không nhìn, cảnh cũ người xưa, phố đường không có gì thay đổi,
mau chân đi tới con đường ngày đó, con đường vô chùa và nhà chị. Vô chùa trước,
ông sư già ngày đó đã viên tịch năm ngoái, bà con đem ông về chôn ở dưới quê
nhà Mộc Hóa. Bên nhà chị, đã có người chủ khác, hỏi qua, thiếm chủ nhà cho biết
“bà ngoại chị mất sau ngày chị lấy chồng vài tuần, từ đầu năm kia, chị theo chồng về đâu đó dưới
Cái Bè, vợ chồng trở lên làm đám tang, đem chôn ngoại trên miếng đất nhà bà con
gì đó ở Suối Sâu, ở nhà chồng làm dâu, những tưởng đời mình vậy là yên thân,
không ngờ bên chồng đày ải quá, chịu cực chịu khổ nghe lời vì một mình tứ cố vô
thân nhưng không yên, chồng bỏ bê lấy vợ bé, gia đình chồng không cản, buồn tủi,
chị bỏ nhà chồng đi một sáng mờ sương mù, trời còn tối. Cũng lâu sau đó có người
quen dưới Suối Sâu nói gặp chị làm gì đó trong chùa Thiền Sơn, khi họ đi xin
cúng cầu siêu cho người thân, chùa do một bà sư cô già trụ trì”.
*
Nắng lên rồi nắng
lên, bên hai cái ghế cây cũ, bạc màu gỗ nâu, hai chị em ngồi đó, lặng thinh,
tôi muốn nói nhiều lắm, chuyện ân tình, nghĩa ơn ngày xưa mình đã được cưu mang,
nhứt là cây viết máy Pilot chị cho mà tôi đang cầm trên tay nhưng lại nghẹn giọng,
đành thôi, chị Mến của tôi bây giờ, không còn là chị Mến ngày xưa nữa, ni cô Diệu
Duyên, với một ni cô không ai được phép nhắc chuyện hồng trần, cỏi đời ô trọc nữa,
có lẽ ni cô cũng nghĩ như vậy, có tiếng bà sư cô già nói vọng ra “sau không
mời khách vào uống chút trà đi con”, chị không trả lời, nhìn tôi cười mà lặng
thinh.
*
Cũng đành quên, tôi
nghẹn ngào từ biệt, chị Mến, ni cô Diệu Duyên đưa ra tới cổng chùa, không khóc
nhưng lòng mình tan nát đau, quay đi ra, định nói lời hẹn ngày gặp lại nhưng chị
đã nhẹ giọng từ tốn nhìn tôi nói nhỏ “thôi em về mạnh giỏi, cho chị gởi lời
thăm má, nhớ lo cho bà, ngày tháng còn lại của má chắc không còn bao lâu, chị Mến
của em, ni cô Diệu Duyên, trọn một đời còn lại này là con của Phật, cát bụi hồng
trần trả lại cho đời, A Di Đà Phật ”, tôi chết lặng, cắn môi, chữ hẹn không
còn trong đầu nữa.
*
Tôi lẳng lặng ra đường,
cổng chùa khép lại từ lâu, bước từng bước chậm, nặng nề trên đường lộ, chiếc xe
lam xế trưa, về trên chợ xã chạy ngang qua vắng khách, tôi không buồn đón, quay
lại sau, chị Mến, ni cô Diệu Duyên vẫn còn đứng sau cổng, tôi không dám nhìn lại
lần nữa, sợ mình sẽ khóc nhưng tôi đã khóc. Chuông chiều vang lên kéo dài rứt
ray, nảo nuột. Chừng nào mới gặp lại chị, tôi chưa biết, chị Mến của tôi đó,
người ni cô tôi biết.
Thuyên Huy
Tuesday, December 2, 2025
Cô Lái Đò Thời Kháng Chiến - Mai Thảo
Liễu nằm thu mình, bất động, trong lòng khoang
con đò nhỏ hai đầu đóng kín. Khuôn mặt Liễu nghiêng nghiêng, đôi mắt nàng mở lớn,
vành tai dương căng hướng lên vùng trời đoán thấy những giải mây trắng nõn đang
bay theo chiều gió trên đầu.
Ở Liễu, là sự hiển hiện rõ ràng một tập trung
tận cùng của thần trí tỉnh táo lắng đọng trong một nghe ngóng cực kỳ thận trọng.
Rồi hai vành môi mím chặt hé mở từ từ cho hơi thở giam nhốt đầy chặt trong lồng
ngực được thoát ra. Bây giờ, Liễu mới cựa mình và thở. Chúng nó đến, với những
tràng liên thanh tặc tặc bắn chéo, những tiếng vang động long trời lở đất.
Chúng nó đến, gầm réo, lồng lộn, rú thét, kín rợp đôi cánh mênh mông như một
loài quạ đen khủng khiếp, với ba màu cờ tam tài đau đáu trên thân. Chúng nó đến,
vút thoáng đã tới, chớp mắt đã gần, bất thần và kinh dị. Nhưng chúng nó đã trở
về căn cứ rồi.
Trong không gian yên tĩnh của buổi chiều miền
núi tàn nắng, tiếng động cơ lắng xuống, lảng đi, xa dần rồi mất hút. Mất hút về
một hướng phi trường Bạch Mai. Và qua vòng đai trắng, qua những vùng tề, mất
hút về một hướng chân trời Hà Nội.
Như một con thú ẩn mình trong hốc tối, bây giờ
tai nạn đã đi qua, Liễu khoan khoái ngồi yên. Vuốt lại áo. Vấn lại tóc. Đoạn,
cúi lom khom trong lòng khoang chật hẹp, nàng đẩy mạnh tấm phên che cho dạt
sang một phía, nhoài người bước ra đầu mũi con đò chòng chành. Trên đầu, những
cành thấp lả ngọn vướng vào mái tóc. Không khí mát rượi, thấm đầy hơi nước từ
lòng con sông óng ánh soi gương phả lên, bao trùm da thịt Liễu trong một ve vuốt
nhột nhạt, Liễu ngửa cổ, nhắm mắt, ngây ngất đón lấy như để yên cho hai cánh
tay một người tình đan quấn khít khao nồng nàn từ trước ngực đến sau lưng. Như
thế một lát. Trong buông thả và thư thái hoàn toàn. Rồi Liễu tựa mình vào thành
mui, đưa mắt ngắm nhìn cảnh vật chung quanh.
Ngày đang rút vơi, đang thu hẹp, cho hoàng hôn
xuống. Một hoàng hôn trên sông, một hoàng hôn miền núi, lồng lộng những dáng
hình và màu sắc phản chiếu, hắt trả, chen lồng vào và xếp chồng lên nhau thành
từng từng chiều hướng ánh sáng và bóng tối thăm thẳm. Bóng núi lẫn chìm trong
bóng nước. Màu sông cũng màu trời.
Và buổi chiều thì khác thường và dữ dội đẹp.
Điệp điệp trùng trùng chạy dài đến vô tận trong hoang dậm kín đặc, những đỉnh
núi ban ngày lòa nắng đang đổi màu, đang tím lại. Mặt sông bao la còn lênh láng
dáng chiều đỏ thẫm, nhưng ngó gần, những con nước lờ đờ say đã gợn gợn khép mắt.
Gió liên hồi thổi tới từ vùng nhờ sương của cánh rừng già đuổi nhau với một bờ
bãi thấp thoáng ghe chài và làng xóm bên kia. Người ta bắt đầu nhen lửa thổi
cơm chiều. Máy bay về rồi. Cuộc sống hồi sinh. Từ chỗ nàng đứng, Liễu nhìn thấy
những búp khói xanh đầu tiên vươn lên, sau những lùm cây.
Bỗng Liễu giật mình. Nàng vừa chợt nhớ ra điều
gì. Khuôn mặt phơi phới bình yên của Liễu thoắt đọng lắng thành một hoảng hốt
trầm trọng. Liễu kêu khẽ: “chết thật”, đoạn chui băng qua lòng con đò về đầu
lái đằng kia. Không nhìn thấy Liễu trong khoảnh khắc. Chỉ thấy con đò chòng
chành dữ dội bởi sự đổi chỗ vội quýnh với những vòng nước xao động tỏa rộng
quanh mạn. Rồi Liễu nhô lên, và nàng vươn tay cởi nhanh sợi giây buộc cột chèo
vào một nhánh cây trên bờ lả xuống thấp nhất, gần khoang lái. Con đò được tự do.
Liễu xoay ngược mũi chèo, đẩy mạnh vào bờ đất. Con đò từ trong đáy kín chỗ ẩn nấp
um tùm lấp khuất của nó băng băng trôi ra cái lồng lộng thoáng mát giữa dòng.
Bằng những cử động nhịp nhàng liên tục, nửa
thân cúi rạp về phía trước, ngả ưỡn về phía sau, Liễu bặm môi ngừng thở, chèo
miết. Nàng chèo. Nàng chèo bằng tất cả sức mạnh truyền xuống hai cánh tay và
dâng lên trong đầu óc. Chiều rừng thẫm xuống. Núi tím hẳn. Dáng chiều chìm dần
xuống đáy nước đã len đầy bóng tối thăm thẳm. Mái chèo cất cao bổng. Bọt trắng
tung tóe. Mái chèo bổ mạnh xuống, vục sâu vào lòng nước.
Con đò như một mũi tên nhẹ lướt đi vun vút. Mặc
dầu gió thổi đầy tràn trong tóc làm phồng lên và đập phần phật tấm áo cánh vải
phin trắng nõn, nhưng Liễu chỉ cảm thấy bừng bừng độ nóng lan tràn cùng khắp
thân thể. Đôi mắt Liễu long lanh hướng thẳng về cái trước mặt đang gần lại. Vầng
trán nàng lấm tấm mồ hôi. Vành môi lúc hé mở cho nhìn thấy những đầu răng óng
ánh, lúc mím chặt lại trong một tập trung sức lực muốn dồn trút nhiều hơn nữa
xuống mái chèo.
Đã hết một khúc quanh khuất nẻo của dòng sông.
Những hình ảnh di động thoáng thoáng trên mặt bến đá nhìn thấy ở xa xa hiện ra.
Bấy giờ từ chỗ ẩn nấp dưới bóng cành lả ngọn trông theo, con đò chỉ còn nhỏ như
một chiếc lá băng băng ngược dòng và Liễu chỉ còn là một cái chấm trắng ly ty
in hình lên nền núi đã nghiêng xuống độ thẫm cuối cùng của màu tím than.
Hà Nội 1945. Nhấy dù mũ đỏ nổ súng bắn chết
người thanh niên tự vệ thành thứ nhất ở dốc Hàng Bún, và mấy tháng sau, Liễu đã
hết là cô gái bán hàng của chợ Cửa Nam. Như cái đám đông nhàn hạ của ba mươi
sáu phố phường thanh lịch, đám đông ấy thoắt tuôn tuôn xô dạt như một dòng thác
về năm cửa ô kinh hoàng, lửa đạn bùng cháy thành sự thay đổi lớn lao nhất của đời
Liễu.
Nàng vừa hai mươi tuổi. Đẹp, vẻ đẹp mặn mà
tình tứ, tuy chẳng phấn son, nhưng đời sống lao động hàng ngày khô- ng hủy diệt
được những nét điệu thanh thoát là sự duyên dáng đặc biệt của người thiếu nữ Hà
Nội mơn mởn dậy thì trong toàn thịnh tuổi hoa. Bất hạnh không đợi chờ lâu đề đổ
ập xuống mái tóc đen mun óng ả chảy dài như một dòng suối của Liễu ngay từ những
dấu chân thứ nhất trên những ngả đường đào ngoài Hà Nội.
Đi cùng với mẹ, chỉ mới chạy ra tới vùng Hà
Đông, mẹ nàng đã bỏ mình dưới làn mưa đạn của phi cơ oanh tạc Pháp. Cái hầm trú
ẩn lộ thiên bên bờ đường ấy không bảo toàn được cho một đời sống đã về chiều.
Băng đạn trút xuống cách Liễu không đầy một gang tay. Nàng thoát chết, để nhỏ
những giọt lệ đầu tiên trong cuộc đời khởi sự hứa hẹn rất nhiều điêu linh và
bóng tối, trên cái tử thi dúm dó của người mẹ xấu số. Một thân một mình, Liễu
đi thêm những đoạn đường. Mỗi đoạn đường mở rộng thêm vào lang thang không định.
Cuộc sống chỉ còn là một ngọn triều. Tầm mắt chỉ còn là hun hút chân trời, những
mịt mùng nắng mưa dãi dầu bay nghiêng qua những vùng trời xa lạ. Và Liễu, trong
ngọn triều kín trùm toàn diện, chỉ còn là một con phao. Ngày tháng nối đuôi
thành cái trạng thái mê mẩn chập chờn của một cơn mộng dữ dũa mòn hết ý chí,
pha loãng hết trí nhớ.
Vật vờ cuốn theo. Buông thả trôi đi.
Những buổi chiều, bàn tay đặt hững hờ trên mái
chèo cho con đò nhẹ dập dình theo dòng nước, những đêm trăng sáng, trăng bát
ngát đầy trời, đầy sông, đầy thuyền, nằm nhìn lên cái đĩa ngọc lạnh lùng treo
cao trên không gian, Liễu ôn lại, cũng không dựng nổi được trong hồi tưởng,
trình tự những xô đẩy những chuyển đổi đã đưa nàng tới vùng rừng núi Nho Quan
thâm u và khuất nẻo này. Tại sao đời nàng lại đặt nổi trên cái diện tích bồng bềnh
hẹp nhỏ của một con đò chở người thời chiến? Tại sao nàng trở thành một cô lái
đò? Tại sao nàng lại làm bạn với nước chảy, với lau lách và bãi bờ? Không nhớ nữa.
Dĩ vãng mờ hơi sương. Kỷ niệm chỉ là những xâu chuỗi lung linh phai tàn và người
con gái bán hàng chợ Cửa Nam trong Hà Nội nghìn trùng cách trở ngày nào, người
con gái ấy đã bị chiến thời giết chết.
Duy có một điều Liễu nhớ. Nó in hằn trong đầu,
nhập lặn vào tiềm thức thành một ám ảnh đeo bám thần trí không rời. Đó là cái
chết của mẹ nàng. Bà nằm trong một cái hầm lộ thiên kế liền bờ đường, và đã bị
một băng đạn liên thanh từ trên máy bay bắn chết. Cho nên Liễu sợ máy bay như
con chim bị tên sợ bất cứ một đường cong nào. Sợ không thể nào tả được. Buổi
sáng, mặt trời vừa nhô lên khỏi dãy núi bên kia sông, con đò của Liễu đã nằm gọn
trong chỗ ẩn náu kín khuất của nó dưới cái tán um tùm xanh đặc của lá cành lả
ngọn từ bờ thật xa ra ngoài mặt nước.
Chọn được cái bóng cây ở khoảng sông khuất nẻo
làm chỗ ẩn cho con đò tránh máy bay, Liễu nhớ đã phải dành trọn một ngày tìm kiếm.
Nàng còn cẩn thận ngắt thật nhiều cành lá gài kín mui đò và trải đầy cả đầu mũi
lần cuối lái. Dấu con đò đến như Liễu dấu, ngụy trang cho con đò đến như Liễu
ngụy trang là tới mức tận cùng của một thận trọng thường trực. Như thế suốt
ngày. Từ sáng qua trưa tới chiều. Từ mặt trời lên. Bóng cây xanh um tùm của
khúc sông khuất nẻo xa đường cái, xa làng xóm chợ búa là một thứ hang hốc an
toàn cho Liễu, như một con thú khiếp đảm, chỉ dám xuất hiện khi có lý do chắc vững
tin tưởng những chiếc máy bay gieo rắc cái chết khủng khiếp không còn lại vãng
bén mảng vào vùng trời trên đầu.
Hoàng hôn xuống, mặt trời lặn, máy bay từ Hà Nội
bay ra máy bay trở lại về Hà Nội, Liễu mới dám thả đò về bến đá Nho Quan đón
khách. Ánh đèn lái lấp lánh mặt nước những đêm tối trời, như những đêm trăng
đãi ngọc đầy khoang, Liễu chèo suốt từ chập tối cho tới tảng sáng, Nếp sống đảo
ngược hoàn toàn. Đêm là ngày, ngày là đêm. Ngày ngủ vùi, đêm thức trọn. Khách
xuống đò Liễu, chui vào khoang, cứ việc ngả mình trên cái chiếu hoa mới còn
thơm mùi cói, đánh thẳng một giấc đẫy mắt, mặc cho Liễu làm bạn với mái chèo
khua nước róc rách, suốt đêm như thể không nghỉ không ngừng, không bao giờ mỏi
mệt. Chèo bằng tay chán thì bàn chân thay tay, bằng nằm ngửa ra mà chèo, cũng dẻo
cũng mau không kém. Đi về trên những bến bờ của dòng sông Đáy và các nhánh sông
con của hai tỉnh Ninh Bình và Hà Nam như thế đã gần hai năm thì Liễu gặp một
người khách lạ: tình yêu.
Bát ngát trên dòng sông ngời ngời, bao la khắp
vòm trời ngợp ngợp, đêm đẹp nhất đời Liễu chỉ còn là một biến trăng lung linh
vô tận. Bờ bãi, cây cối, những nét núi xa ngu ngơ kéo dài từng vệt mờ ảo trong
sáng trắng vằng vặc. Cái bến đá Nho Quan không nhìn thấy nữa ngoài thứ ánh sáng
mờ yếu của một vài ánh đèn le lói. Và bây giờ thì, mái chèo gác cao, con đò lững
lờ thả buông trên cái gợn gợn giữa dòng.
Người trẻ tuổi gối đầu lên cái bạc đà, thứ bạc
đà dãi dầu mưa nắng đầy những dấu tích gió bụi đường trường của người đi công
tác trong thời kỳ kháng chiến.
Y nằm ngửa, cởi trần, hai bàn tay đan vào
nhau, đặt yên giữa ngực, nhìn không chớp lên cái đĩa ngọc treo xa thẳm trên
mông mênh không khí. Liễu nằm bên cạnh, và Liễu cũng nhìn lên nền trời xanh biếc
ánh trăng. Gió lùa đầy theo một nhịp tràn đầy không dứt. Khoang thuyền nhễ nhại
sáng. Tiếng nước hai mạn róc rách như một lời tình tự thì thầm. Nhưng sự có mặt
lớn nhất trên dòng sông vẫn là im lặng. Một thứ im lặng rất không gian êm ái thấm
nhập ngọt ngào từng đợt vào thân thể, và trong một khoảnh khắc, Liễu khép mắt lại
để tận hưởng sự im lặng riêng tư kỳ thú đó.
Người đàn ông chợt xoay nghiêng, cho nhìn thấy
Liễu. Những ngón tay y đùa nghịch hững hờ trên những sợi tóc vương xuống trán
nàng, Liễu rùng mình đón nhận sự âu yếm bắt đầu.
–Ban nãy em có nhận ngay thấy anh không?
–Thấy từ xa. Anh đeo ba lô, anh đứng riêng và
đứng trên chỗ cao nhất.
Người đàn ông cười nhẹ. Trăng đầy trong mắt Liễu
từ từ mở lớn.
–Anh đứng trên chỗ cao nhất, cốt cho em nhìn
thấy mà!
Liễu dụi dụi mái tóc nàng vào một bên cánh tay
rắn chắc của người đàn ông, nhớ lại lúc nàng buông mái chèo cho con đò cập bến
đá.
–Lần sau anh nhảy xuống, nương chân một chút.
Nhảy mạnh quá chừng. Suýt nữa đắm đò em.
–Đắm đò thì chúng mình cùng ôm nhau cùng chết.
Cùng ôm nhau mà về kiếp sau.
Liễu đặt vội tay lên miệng người yêu như muốn
ngăn lại lời nói gở miệng. Gở miệng, nhưng nàng sợ mà sung sướng uống lấy, uống
lấy từng tiếng. Cùng chết. Cùng đưa nhau về kiếp sau. Vàng đá thủy chung và đằm
thắm gắn bó đến thế là cùng.
–Anh!
–Gì em?
–Kiếp sau như thế nào?
Người đàn ông nằm trở lại, cười lên vòm trời:
–Chúng mình còn sống, làm sao anh biết được.
Kiếp sau chắc là một thiên đường đầy đặc những lứa đôi yêu nhau mà thế gian này
làm cho xa cách và đau đớn. Một vườn tiên đầy bướm hoa, vĩnh viễn mùa xuân
thơm.
Liễu nghĩ khác. Kiếp sau trong hình dung lãng
mạn của nàng là im lặng bao la, im lặng mênh mông như cái im lặng nhễ nhại ánh
trăng của dòng sông đêm, con đò lững lờ thả buông là một hòn đảo thiên đường,
nàng nằm bên cạnh tình yêu tuyệt đối, phơi phới ở ngoài mọi bến bờ tục lụy. Kiếp
sau chính là một đất trời vô tận trắng dãi. Cả một kiếp sau là của riêng nàng
và chàng, không có kẻ thứ ba. Những rừng cây ngút ngàn chạy dài không một tiếng
động của lá rụng. Những con sông chở trăng ra biển, biển trăng và sông trăng
không gợn một tiếng nước chảy một lời sóng đập, chỉ là những tấm gương long
lanh in bóng một hạnh phúc đời đời.
Kiếp sau là tựa đầu trên vai chàng, nghe nhịp
đập bình yên của trái tim chàng, là cái hình ảnh nguyên thủy đó của trái đất và
người đàn ông thứ nhất và người đàn bà đầu tiên không bao giờ xa mất nhau. Kiếp
sau là tự nhiên, và khỏa thân yêu trên một cõi đời yên lặng chỉ có hai mái đầu
và mênh mông trắng đẹp. Kiếp sau là hai trong một. Như chàng và Liễu phút này,
nằm bên nhau trong một khoang trăng đầy, giữa rời rợi nước chảy.
–Bao giờ anh lại đi?
–Lát nữa. Gần sáng.
Lát nữa. Trăng chưa lặn, chàng đã lên bờ, bóng
chàng đã nhỏ, chàng đã đi xa. Liễu biết mà vẫn hỏi, và biết chàng trả lời mà
nghe rồi, trái tim vẫn chảy máu, lòng vẫn dao cắt. Thân phận của người lái đò
trong những tháng ngày lửa đạn là thế đó. Con đò là hình ảnh đời nàng. Lênh
đênh giữa dòng. Sớm đụng bờ này chiều dạt bờ kia, nhưng không có một bến đậu
nào làm sự che chở bền vững.
–Anh ở xa em có nhớ anh không?
Nhớ, Nhớ, Nhớ, Đêm đêm ngày ngày, sáng sáng
chiều chiều. Khoang đò lạnh như lòng. Đêm sông dài như hồn. Chiều rừng nào cũng
bốc cao thành những đỉnh nhớ ngút mắt, Liễu nhớ từng ngày người tình về như con
nước về mỗi tuần trăng, từng phút người tình đi như lòng sông sớm mai con nước
rút đi cho nổi hình cái cạn khô bờ bãi.
Tất cả bắt đầu từ một chuyến đò. Người ta gọi
đó là một chuyến đò nên duyên, một chuyến đò định mệnh. Người đàn ông là mây
bay trên trời, và Liễu là một phận bèo trôi dạt, Lửa đạn ở giữa họ làm cho hội
ngộ lần đầu và một vài lần trùng phùng hiếm hoi sau đó đều chứa đựng một cái gì
bàng hoàng đau đớn, như hạnh phúc chỉ là cái ảnh hình hư ảo của chiêm bao. Tình
yêu đi thành thủy triều, làm Liễu nghẹt thở và chết đuối. Tình yêu như nhễ nhại
và chan hòa trăng rót điệp điệp suối vàng vào cái vũng đời Liễu đã tối trời còn
lạnh buốt mưa bay. Và Liễu, mỗi lần chàng hẹn, chàng về, chàng đứng đó, trên bờ
đá cao, thân hình chàng in sâu vào nền trời đã lồng lộng gió chiều, nhạt nhạt
dáng chiều, nàng đều đón nhận sự gặp lại ấy như thảng thốt bất ngờ của một diễm
phúc mới tự trời cao rót lạc xuống lòng tay.
Chiến tranh bao trùm và Liễu nhận lấy cái sự
thực tàn bạo của nó. Hà Nội đã xa, mẹ nàng đã chết. Sống biết từng giờ, sống đo
từng phút. Những chiếc máy bay ngày ngày ào tới, lửa đạn trút xuống, cái chết
mù quáng không lựa chọn để riêng tha cho một cuộc đời nào. Cho nên yêu và nhớ ở
Liễu không đắn đo, không kìm giữ, thả buông tận cùng thành một trạng thái đớn
đau, một điên cuồng tuyệt vọng.
Đêm khuya hơn, trời cao hơn, trăng xanh hơn
trong yên lặng lớn. Tiếng người đàn ông chợt len sâu vào tóc, Liễu nghe rót êm
vào hồn nàng như tiếng sóng rì rầm quanh mạn:
–Em lạnh không?
Liễu chưa kịp rùng mình, khuôn mặt người đàn
ông cúi nghiêng trên khuôn mặt nàng đã làm tối lại tầm mắt bằng một sầm tối nồng
cháy. Rồi con đò nghiêng đi bởi một rời đổi đột ngột của chỗ nằm, và thân thể
Liễu bị đè nặng bởi một đè nặng cực kỳ êm ái. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi,
với sự ghi nhận thảng thốt của lý trí về một phản ứng cưỡng chống yếu đuối nửa
vời, Liễu biết nàng không kìm giữ được nữa, Mấy lần trước chàng về, Liễu đã kìm
giữ dược.
Thân thể nàng, da thịt nàng bao lần đã nhận chịu
sự ve vuốt đó, một sự ve vuốt trăm nghìn, như không phải chỉ có hơi thở, lời
nói, những ngón tay và thân hình đè nặng của người đàn ông ve vuốt, mà còn những
cánh tay mê mẩn, những hơi thở nồng nàn của đêm, của trăng của không khí thơm
tho ngọc thạch chung quanh, của ánh trăng tắm đẫm trên những đầu dây thần kinh
phơi phới ve vuốt. Nhưng tới cánh cửa lơi lả cuối cùng của mở ngỏ thiếu nữ,
cánh cửa đó lần nào Liễu cũng đóng kịp lại được khi tình yêu là một mũi nhọn sắp
băng qua.
Đêm nay thì không. Nàng đêm nay yếu hơn nàng từng
đêm trăng trước. Lát nữa chàng lên bờ rồi, và mất hút vào xanh đặc núi rừng. Lẽ
tất nhiên chàng sẽ hẹn trở về. Nhưng tuần trăng tháng sau, con đò đến đón người
trên bến đá, tròng mắt Liễu biết có còn được mừng rỡ ánh lên trước cái bóng
hình yêu dấu đứng đợi chờ nàng trên cao?
Sống chết đã không hẹn giờ, tất cả nằm trong
cái hiếm quý vô ngần của một đêm trăng sáng. Thôi nhé, đừng cưỡng chống. Và Liễu
nhắm nghiền mắt lại, đầy trăng ra khỏi tròng. Bằng một tiếng kêu ngân đi không
cùng trong im lặng hoang đường xanh biếc chung quanh, Liễu phá vỡ cái bờ cuối
cùng của đời nàng, thả mặc cho dòng đầy tình yêu dào dạt băng đi.
Khi Liễu tỉnh dậy, trăng đã lu và sắp lặn xuống
bên kia sông, trên một đầu núi. Con đò ướt át bồng bềnh trong một biển sương mù
kín đặc. Người đàn ông hôn một lần cuối cùng lên mái tóc nàng và Liễu biết đó
là dấu hiệu của tình yêu từ biệt. Liễu rên khẽ một tiếng nhỏ nũng nịu trong cổ
họng, lăn vào sự ấm áp kế liền. Nhưng một cánh tay đã đẩy nhẹ nàng ra. Và một
bàn tay đã lắc lắc vai nàng cho Liễu tỉnh ngủ.
-Đêm rằm tháng sau anh lại trở về.
-Đưa anh vào bờ.
Liễu không nhớ rõ được nữa. Chỉ thoang thoáng
mơ hồ là nàng đã đã ngồi lên, đã hạ mái chèo xuống nước, tai nàng lại nghe thấy
róc rách nổi lên tiếng chèo vặc vào lòng nước chập chờn sương tỏa trắng xóa, rồi
cái bến đá ướt át lờ mờ hiện ra trước tầm mắt còn nặng trĩu giấc ngủ, và tiếng
đầu mũi đò trong một va đụng lạt sạt.
–Trời sắp sáng rồi. Em chèo thẳng về bóng cây,
cột buộc đồ và dấu kín nó cẩn thận rồi hãy ngủ tiếp.
Người đàn ông căn dặn Liễu đó. Câu nói lại cuối
cùng của y đó, trước khi đeo bạc đà bước nhanh lên bờ.
–Đẩy đò ra cho em.
Một bàn chân đạp mạnh. Con đò chòng chành lùi
trở lại con đường trôi dạt của nó từ cái bến đá ra đến giữa dòng. Và Liễu,
trong một hơi thở dài mỏi mệt kỳ thú, đã buông rơi mái chèo, nằm vật xuống. Trận
tình trên cái bao la bát ngát giữa dòng trắng đã thổi qua thân thể bốc cháy của
Liễu như một trận bão. Liễu đương căng tận cùng cảm giác, đón nhận sự tàn phá
thần thánh. Mê đắm một dòng đầy.
Và Liễu như một con phao nổi chìm tan tác. Cuộc
đời thiếu nữ vừa chết, khai sinh ở Liễu những cảm giác và một trạng thái kỳ lạ.
Miệng nàng hé mở, ánh mắt lim dim, vầng môi hé mở không thôi cười với giấc mơ
nõn nà chưa dứt. Trên từng tấc da thịt tuyềnh toàng, còn như bừng bừng in hẳn
những ve vuốt chiếm ngự bốc lửa, bỏng rát và ngất ngây say.
Tay chân Liễu như đứt rời khỏi thân thể. Thân
thể hững hững hờ hờ, không thuộc về nàng, không còn của nàng. Đó là cảm giác của
một trút thoát lâng lâng, một tan nát lả lả, một choáng váng ngà ngà.
Đêm sắp tàn ở đâu, ngày sắp sáng ở đâu, mặt trời
sắp lên ở đâu, có lẽ, có thể, không biết nữa. Nàng nằm lịm, bất động trong sự mỏi
mệt kỳ thú, như một cái võng hoa dìu dần nàng xuống đáy cùng của một vũng thơm.
Đầu óc Liễu nặng dần, nhòa dần. Chàng dặn: “Em
nhớ đưa đò về ẩn dưới bóng cây xong hãy ngủ”, Liễu nhớ chàng dặn chứ. Hình ảnh
người mẹ bỏ mình dưới tràng đạn liên thanh từ trời cao trút xuống. Tai nạn khủng
khiếp. Cái chết thảm thê. Mặt trời sắp lên và máy bay sắp tới. Những chiếc máy
bay gầm réo, rú thét, với màu cờ tam tài đau đáu trên thân, những chiếc máy bay
từ Hà Nội bay ra, rợp đôi cánh lớn mênh mông như một loài quạ đen khủng khiếp.
Đừng ngủ. Không được ngủ. Phải đưa con đò về
cho ẩn kín vào cái xanh đặc um tùm của một bóng cây ven bờ. Liễu biết, Liễu nhớ.
Chàng đã dặn. Phải làm thế, phải làm thế. Nhưng trận tình dữ dội đã biến Liễu
thành một khối bất động kỳ thú muốn kéo dài và không muốn ra khỏi.
Cử chỉ cuối cùng của Liễu là cố ngóc đầu dậy,
khi con đò đã lênh đênh trôi tới giữa dòng, và cánh tay, bằng một cố gắng trong
mỏi rời, chới với vươn tới một đầu mái chèo. Nhưng bàn tay Liễu thì không bao
giờ, không bao giờ nắm được mái chèo ấy. Trạng thái mỏi mệt và tan nát thần
tiên kỳ thú đã lại đẩy Liễu ngã vật xuống. Môi Liễu hé mở. Nàng mỉm cười, và
nàng lại thả buông cho cảm giác nàng trôi lâng vào dòng hoan lạc còn đầy trong
thân thể. Hai cánh tay ghì lại, tìm kiếm nhau như ôm giữ khít khao một thân thể
vô hình yêu dấu, Liễu gục đầu xuống ván đò, mỉm cười và ngủ thiếp đi.
Mặt nước ở phía dưới rực rỡ mặt trời vừa mọc.
Chiếc máy bay đã vượt qua dòng sông thì tên phi công mũi lõ chợt nhìn thấy cái
hình dáng thon dài của con đò phơi mình dập dình trên cái vùng gờn gợn sáng lòa
giữa dòng. Suốt đường bay, tên lính lái chiếc phi cơ oanh tạc chưa tìm ra một mục
tiêu nào. Dưới đất địch, mọi hình thái của sự sống, mọi chuyển động, mọi sự vật
đều đã mất dạng, đã ẩn kín. Thôi thì bằng lòng với cái mục tiêu bắn phá tầm thường
là con đò giữa dòng vừa nhìn thấy.
Chiếc máy bay quay đầu. Và như một con diều
hâu vừa tìm thấy mồi, máy bay lượn nghiêng một vòng rồi là là hạ thấp xuống.
Vang động tiếng gầm rú kinh hoàng của đâm bổ chớp nhoáng. Đầu phi cơ lòe lửa.
Buổi sáng núi rừng yên tĩnh ngừng bặt hơi thở trong tràng đạn long trời lở đất.
Mặt sông nổi sóng dữ dội như một cơn lốc phũ phàng băng qua. Khi chiếc máy bay
cất bổng đôi cánh lớn của nó lên trong vùng chói mặt trời, cũng là lúc con đò
trúng đạn lật nghiêng và chìm xuống. Và Liễu thì đã vẫn bằn bặt mỉm cười mà rơi
chìm xuống cái đáy thăm thẳm rười rượi và tận cùng của tình yêu.
Mai Thảo
Trích từ Tuyển Tập “Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật”






