Người Ni Cô Tôi Biết
Chuyện tự dựng - mượn một số địa danh
thật
Từ ngõ vào chùa
ngoài đường lộ vô, chùa Thiền Sơn, mái ngói âm dương rong rêu, cổ kính, nằm lẻ
loi giữa những cây Sao già, cao ngời ngợi, cách xóm nhỏ cuối làng một cánh đồng
khoai mì, xa chợ xã chừng vài cây số, buổi sáng, trời giữa hạ nhưng tàng nào
tàng nấy vẫn lá với lá, xanh vàng chen nhau trong nắng sớm vừa lên.
*
Tới cổng, cái cổng
cây cao kín hơn đầu người, tôi đứng khựng lại nhìn vào, phía sau chùa, rải rác lưa thưa ba bốn người,
lom khom trồng gì đó, chưa kịp lên tiếng gọi, từ hậu liêu đi ra, người ni cô trẻ,
đầu chít khăn cùng màu nâu bạc của cái áo thụng nâu sồng đi ra, tôi vẫn đứng
ngoài cổng, ni cô tới, tôi cúi đầu chào, cô nhìn lên, bên trong có tiếng chuông
vọng ra nho nhỏ, bước vào, gọi nhỏ “chị Mến”, ni cô cười nhẹ, cái cười của
bảy tám năm trước đây, buổi chiều ở quê nhà, khi chị đi ngang sân chùa Trúc
Lâm, đưa cho tôi miếng bánh bò lá dứa, lúc tôi đứng nhìn trời xa xa, nhớ nhà,
buồn muốn khóc, cái khóc của thằng nhỏ mới lên mười, mà tôi không quên được.
Đi bên chị, bây giờ
là ni cô Diệu Duyên, chị không nhìn tôi, chỉ nói khẻ, cái nói khẻ mừng thầm “A
Di Đà Phật, Duy, em vẫn khỏe hả”, xúc động dâng lên ngập người, bổng
dưng muốn khóc, tôi cười đáp, cười nhưng mắt mình ngấn lệ “chị Mến chị
khỏe không”, ni cô Diệu Duyên, quay mặt đi, lặng thinh. Trời nắng rực lên
giữa sân, con đường nhỏ, lát gạch nâu cũ ngả màu, ngõ đi vào hậu liêu, đám bông
Mười Giờ hai bên he hé nở, cả hai, chị và tôi vẫn im lặng.
*
Đậu vào đệ Thất trường
quận, nhà nghèo, má một đời làm phu cạo mủ, ba mất từ hồi nào tôi không biết và
má cũng chưa một lần nhắc tới, không quen biết ai, làm sao đây, ước mơ nhỏ nhoi
của phận mình là muốn con học, để mai sau đổi đời, khổ như mình quá đủ rồi, nhờ
má ăn ở hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ nên bà con chòm xóm cũng thương, may nhờ bà
bác góa chồng, tu tại gia, ở cuối chợ xã, chỉ cho đường xuống, gởi tôi ở cái
chùa giữa phố quận, ông sư già dưới đó tốt bụng lắm, người tu hành mà.
Cũng cái áo bà ba bạc
màu bùn, cái áo ít khi bận, chỉ để khi nào có chuyện gì đó mà có với người ta,
nhưng nếu đếm đầu ngón tay thì có lẽ nó chỉ được má bận chắc không hơn ba lần,
sáng sớm trước ngày tựu trường, tay xách tay mang hai ba cái giỏ lát đựng mấy bộ
quần áo đồng phục mới, thêm áo quần cũ bận ở nhà và vài thứ lặt vặt, dép giày,
của tôi, đón xe lam xuống quận.
Tôi ngơ ngác nhìn
xe cộ đường xá, đi theo má, ngôi chùa được người ta chỉ kiếm không khó. Gặp một
chị đứng quét lá trong sân, có tượng ông Phật cao hơn đầu người, đưa vào gặp
ông sư già, đang đi loanh quanh mấy cụm bông Sứ vàng bên hông chùa, má cúi sát
người, tôi khoanh tay làm theo. Ông sư ngồi xuống cái băng ghế cây dài giữa
sân, hai má con ngồi bên theo lời ông bảo. Câu chuyện xin cho tôi được ở trọ đi
học chấm dứt không lâu sau đó, trời nắng lên, má ra về, ông sư già đưa tới cổng,
ông nhè nhẹ nắm tay tôi, nhìn theo, má đi xa cứ ngó lại, hình như má khóc, ông
sư vẫn để yên cho, tôi òa lên khóc.
*
Buổi chiều, đi học về,
vào học chừng hai ba ngày, đứng ngơ ngơ, lẩn thẩn ngoài sân chùa, nhìn người
qua người lại trên đường ngoài rào, trời còn nắng, nhớ nhà nhớ má cứ thút tha
thút thít mà không biết làm gì hơn, đi tới đi lui, nghe tiếng ai đó gọi “em
ơi” ngoài đường vào, tôi quay ra, một chị gái, chắc khoảng mười tám mười chín
gì đó, tới sát bên hàng rào gạch, làm dấu lại gần, chị cười thật tươi, đưa cho
cái bánh bò lá dứa, bảo cầm ăn, tôi bỡ ngỡ, chị luôn miệng “không ăn thì cất
đi chút nữa ăn”. Tôi cám ơn cầm lấy, chị chỉ chị ở nhà bên kia đường, cái
nhà cây nho nhỏ, nằm khiêm nhượng giữa mấy căn nhà gạch hai bên, chị hỏi tên,
không hỏi thêm gì nữa, bỏ băng qua bên kia, tôi nhìn theo, lần nữa chị quay lại
cười, trong đầu óc của thằng con trai mười tuổi thì chị đẹp lắm. Hết một tuần học
đầu tiên, sáng thứ bảy má xuống quận sớm, má con mừng vui, đón xe lam về nhà
chơi, ngồi bên má trên xe mà vừa thấy vui vừa thấy thương má, thương cái áo bà
ba màu bùn nâu bà đang bận.
*
Chị Mến, mồ côi cha
mẹ từ nhỏ, sống với bà ngoại từ đó tới giờ, bà ngoại bị tật ở chân, đi khập khiểng,
phải chống gậy, tuổi chắc cở ông sư già, giờ thấy già yếu lắm, bà chỉ đi lẩn quẩn
trong nhà, lâu lâu cố bước ra sân trước, cho có chút nắng, tôi nghĩ vậy, hai bà
cháu hiền lắm, ai cũng mến, chị thường chạy qua bên chùa, phụ cái này giúp cái
kia, dọn dẹp chỗ này chỗ nọ nên ông sư thương chị như con cháu.
Chị có đi học nhưng
học tới lớp đệ Ngủ thì nghỉ vì cảnh nhà túng quẩn, bà ngoại không còn mạnh, hết
bệnh này tới bệnh kia, không đủ khỏe để ngồi đan lưới, bán cho ghe xuồng dưới
chợ, chị xin vào làm phụ bán hàng cho tiệm bán gạch ngói, xi măng, vật liệu xây
cất lớn nằm dọc bên đường quốc lộ, cạnh hàng rào bến xe quận, sáng đi chiều về
từ mấy năm nay.
Chạy ra chạy vô bên
chùa, nghe ông sư già nói, hỏi han qua lại tôi, chuyện ăn ở học hành, cũng mồ
côi nhưng may hơn chị là tôi còn có má, thấy thằng nhỏ ngồi ăn cơm với tương
chao, dưa cà mà thương nên chị cũng thường xin ông sư cho tôi qua bên nhà ăn
cơm với chị và bà ngoại.
*
Vài tuần sau, không
biết chị nói gì với ông sư già, sáng sớm thứ bảy, ngày má tôi xuống đón về nhà,
chị cùng tôi đứng chờ trước cổng chùa, chỗ tôi thường đứng, về nhà như mấy lần
trước, tôi đã nói, không đầu không đuôi về chị Mến nên khi gặp nhau, hai người
vui vẻ, chị chị em em tự nhiên, bớt ngại ngùng. Má ở lại hơi muộn, chị đưa má
và tôi ra tiệm cơm ngoài ngã ba, đầu đường xuống chợ quận, ăn hủ tiếu, bánh
canh, bà e ngại chối từ nhưng chị nhứt định phải đi. Trở lại chùa, hai người vô
gặp ông sư già, tôi đứng lấp ló ngoài cửa hậu liêu, không biết người lớn nói
gì, chập sau đi ra, có ông sư già theo ra, ai nấy cũng cười.
*
Chủ nhật hôm sau má
đưa tôi xuống quận sớm hơn thường lệ, chị ra đón rồi hai người dắt tôi vô chùa
như hôm qua, cũng vào gặp ông sư già, má với chị lăng xăng, gom góp đồ đạc,
mùng mền của tôi, bỏ vào mấy giỏ lát như ngày khăn gói xuống trường nhập học,
ông sư già nhìn, nhắc cái này cái kia, tôi ngơ ngác, chết trân đứng nhìn. Đâu
đó xong xuôi, má biểu tôi đứng sau lưng, bà cúi xá lạy ông sư già ba cái dài, lắc
tay tôi, cũng như bà tôi khoanh tay cúi người xá lạy ông ba lạy rồi bổng dưng
òa khóc, má và chị mắt đỏ hoe, ông sư già kéo tôi tới sát người, xoa đầu “ở
bên đó ngoan nghe con, buồn thì chạy qua chơi với ông”, giọng từ tốn nhưng
xong câu ông quay mặt đi. Ông theo ra tới cổng chùa, má, chị và tôi băng qua
bên kia đường, quay lại chào ông lần nữa, ông gật đầu, làm dấu “đi đi”. Má
vào nhà thăm hỏi bà ngoại một chập rồi chị đưa bà ra về, tôi qua ở bên nhà chị
từ hôm đó.
*
Từ đó, sáng sớm đi
học, đến trường hay chiều về, có chị đi bên, hai chị em nói cười vang rân trên
đường. Về tới nhà thì ngoại đã hỏi đói bụng chưa. Tình chị em, tình bà cháu
ngày càng gần gũi, khắng khít hơn, tôi cũng bớt nhớ nhà nhưng trong giấc ngủ
đêm vẫn cứ nhớ má, không biết giờ này má ngủ chưa hay chong đèn khuya chờ sáng,
cái xe đạp cà tàng chắc cũng buồn vì thiếu tôi, má đi một mình, sáng tinh
sương, chiều xẩm tối.
Tới cuối năm đệ Tứ,
trường chưa có lớp đệ nhị cấp nên tôi phải rời đó chuyển lên trường tỉnh, lần
này tôi phải xa nhà hơn trước. Tin này làm chị và ngoại buồn hết mấy ngày, tôi
cũng không hơn gì nhưng không làm sao khác được, bốn năm qua, tôi nhớ rõ từng bữa
cơm, từng ly nước, từng cái nhắc nhở áo quần, cặp sách, của chị và của bà ngoại
lo cho, kỷ niệm vui nhiều hơn buồn của tình chị em, tình bà cháu, không làm sao
tôi quên được. Rồi cũng tới lúc xa nhau, hôm tay xách tay mang đồ đạc, ôm ngoại
ôm chị, từ biệt mà nước mắt tôi rưng rưng, chị tặng cho tôi một cây viết máy
Pilot, có khắc tên tôi và tên chị cùng ngày tháng, món quà tiễn nhau mà cho tới
ngày ra trường đi làm tôi vẫn có nó bên mình.
Tôi lên xe, chú tài
xế nổ máy chờ, chị cười mà muốn khóc “em về trển ráng học, khi nào rãnh nhớ
xuống thăm chị nghe” vậy thôi, xe chạy đi rồi, chị đứng nhìn theo, tôi bật
khóc “chị Mến ơi”. Hai chị em xa nhau từ hôm đó.
*
Nhà nghèo, sợ má buồn
nên tôi cứ mãi chăm chú, lo học cho được, không hẳn là học ngày học đêm nhưng cố
hết sức mình, bỏ hết chuyện đánh đôi đánh đọ, bè bạn cà pháo cà phê, một phần
lo đi làm, bưng dẹp tiệm quán ngoài chợ tỉnh, phụ tiền cơm áo cho má đở đi lam
lũ, sáng sương nắng chiều mưa dầm, một đời thân người phu cạo mủ, trong suốt gần
hai năm trời.
Đậu Tú Tài Một, nhớ
chị, lâu rồi sẳn vừa thi xong, đón xe xuống quận, trước là thăm lại ngoại và chị,
sau là báo tin vui. Hôm đó chủ Nhật, xuống xe, vừa sắp vào trưa, mùa hạ, trời
nóng, không ngó không nhìn, cảnh cũ người xưa, phố đường không có gì thay đổi,
mau chân đi tới con đường ngày đó, con đường vô chùa và nhà chị. Vô chùa trước,
ông sư già ngày đó đã viên tịch năm ngoái, bà con đem ông về chôn ở dưới quê
nhà Mộc Hóa. Bên nhà chị, đã có người chủ khác, hỏi qua, thiếm chủ nhà cho biết
“bà ngoại chị mất sau ngày chị lấy chồng vài tuần, từ đầu năm kia, chị theo chồng về đâu đó dưới
Cái Bè, vợ chồng trở lên làm đám tang, đem chôn ngoại trên miếng đất nhà bà con
gì đó ở Suối Sâu, ở nhà chồng làm dâu, những tưởng đời mình vậy là yên thân,
không ngờ bên chồng đày ải quá, chịu cực chịu khổ nghe lời vì một mình tứ cố vô
thân nhưng không yên, chồng bỏ bê lấy vợ bé, gia đình chồng không cản, buồn tủi,
chị bỏ nhà chồng đi một sáng mờ sương mù, trời còn tối. Cũng lâu sau đó có người
quen dưới Suối Sâu nói gặp chị làm gì đó trong chùa Thiền Sơn, khi họ đi xin
cúng cầu siêu cho người thân, chùa do một bà sư cô già trụ trì”.
*
Nắng lên rồi nắng
lên, bên hai cái ghế cây cũ, bạc màu gỗ nâu, hai chị em ngồi đó, lặng thinh,
tôi muốn nói nhiều lắm, chuyện ân tình, nghĩa ơn ngày xưa mình đã được cưu mang,
nhứt là cây viết máy Pilot chị cho mà tôi đang cầm trên tay nhưng lại nghẹn giọng,
đành thôi, chị Mến của tôi bây giờ, không còn là chị Mến ngày xưa nữa, ni cô Diệu
Duyên, với một ni cô không ai được phép nhắc chuyện hồng trần, cỏi đời ô trọc nữa,
có lẽ ni cô cũng nghĩ như vậy, có tiếng bà sư cô già nói vọng ra “sau không
mời khách vào uống chút trà đi con”, chị không trả lời, nhìn tôi cười mà lặng
thinh.
*
Cũng đành quên, tôi
nghẹn ngào từ biệt, chị Mến, ni cô Diệu Duyên đưa ra tới cổng chùa, không khóc
nhưng lòng mình tan nát đau, quay đi ra, định nói lời hẹn ngày gặp lại nhưng chị
đã nhẹ giọng từ tốn nhìn tôi nói nhỏ “thôi em về mạnh giỏi, cho chị gởi lời
thăm má, nhớ lo cho bà, ngày tháng còn lại của má chắc không còn bao lâu, chị Mến
của em, ni cô Diệu Duyên, trọn một đời còn lại này là con của Phật, cát bụi hồng
trần trả lại cho đời, A Di Đà Phật ”, tôi chết lặng, cắn môi, chữ hẹn không
còn trong đầu nữa.
*
Tôi lẳng lặng ra đường,
cổng chùa khép lại từ lâu, bước từng bước chậm, nặng nề trên đường lộ, chiếc xe
lam xế trưa, về trên chợ xã chạy ngang qua vắng khách, tôi không buồn đón, quay
lại sau, chị Mến, ni cô Diệu Duyên vẫn còn đứng sau cổng, tôi không dám nhìn lại
lần nữa, sợ mình sẽ khóc nhưng tôi đã khóc. Chuông chiều vang lên kéo dài rứt
ray, nảo nuột. Chừng nào mới gặp lại chị, tôi chưa biết, chị Mến của tôi đó,
người ni cô tôi biết.
Thuyên Huy

No comments:
Post a Comment