Thursday, December 4, 2025

Người Ni Cô Tôi Biết - Thuyên Huy

 

Người Ni Cô Tôi Biết

Chuyện tự dựng - mượn một số địa danh thật

 


    Từ ngõ vào chùa ngoài đường lộ vô, chùa Thiền Sơn, mái ngói âm dương rong rêu, cổ kính, nằm lẻ loi giữa những cây Sao già, cao ngời ngợi, cách xóm nhỏ cuối làng một cánh đồng khoai mì, xa chợ xã chừng vài cây số, buổi sáng, trời giữa hạ nhưng tàng nào tàng nấy vẫn lá với lá, xanh vàng chen nhau trong nắng sớm vừa lên.

*

    Tới cổng, cái cổng cây cao kín hơn đầu người, tôi đứng khựng lại nhìn vào,  phía sau chùa, rải rác lưa thưa ba bốn người, lom khom trồng gì đó, chưa kịp lên tiếng gọi, từ hậu liêu đi ra, người ni cô trẻ, đầu chít khăn cùng màu nâu bạc của cái áo thụng nâu sồng đi ra, tôi vẫn đứng ngoài cổng, ni cô tới, tôi cúi đầu chào, cô nhìn lên, bên trong có tiếng chuông vọng ra nho nhỏ, bước vào, gọi nhỏ “chị Mến”, ni cô cười nhẹ, cái cười của bảy tám năm trước đây, buổi chiều ở quê nhà, khi chị đi ngang sân chùa Trúc Lâm, đưa cho tôi miếng bánh bò lá dứa, lúc tôi đứng nhìn trời xa xa, nhớ nhà, buồn muốn khóc, cái khóc của thằng nhỏ mới lên mười, mà tôi không quên được.       

    Đi bên chị, bây giờ là ni cô Diệu Duyên, chị không nhìn tôi, chỉ nói khẻ, cái nói khẻ mừng thầm “A Di Đà Phật, Duy, em vẫn khỏe hả”, xúc động dâng lên ngập người, bổng dưng muốn khóc, tôi cười đáp, cười nhưng mắt mình ngấn lệ “chị Mến chị khỏe không”, ni cô Diệu Duyên, quay mặt đi, lặng thinh. Trời nắng rực lên giữa sân, con đường nhỏ, lát gạch nâu cũ ngả màu, ngõ đi vào hậu liêu, đám bông Mười Giờ hai bên he hé nở, cả hai, chị và tôi vẫn im lặng.

*

   Đậu vào đệ Thất trường quận, nhà nghèo, má một đời làm phu cạo mủ, ba mất từ hồi nào tôi không biết và má cũng chưa một lần nhắc tới, không quen biết ai, làm sao đây, ước mơ nhỏ nhoi của phận mình là muốn con học, để mai sau đổi đời, khổ như mình quá đủ rồi, nhờ má ăn ở hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ nên bà con chòm xóm cũng thương, may nhờ bà bác góa chồng, tu tại gia, ở cuối chợ xã, chỉ cho đường xuống, gởi tôi ở cái chùa giữa phố quận, ông sư già dưới đó tốt bụng lắm, người tu hành mà.

    Cũng cái áo bà ba bạc màu bùn, cái áo ít khi bận, chỉ để khi nào có chuyện gì đó mà có với người ta, nhưng nếu đếm đầu ngón tay thì có lẽ nó chỉ được má bận chắc không hơn ba lần, sáng sớm trước ngày tựu trường, tay xách tay mang hai ba cái giỏ lát đựng mấy bộ quần áo đồng phục mới, thêm áo quần cũ bận ở nhà và vài thứ lặt vặt, dép giày, của tôi, đón xe lam xuống quận.

    Tôi ngơ ngác nhìn xe cộ đường xá, đi theo má, ngôi chùa được người ta chỉ kiếm không khó. Gặp một chị đứng quét lá trong sân, có tượng ông Phật cao hơn đầu người, đưa vào gặp ông sư già, đang đi loanh quanh mấy cụm bông Sứ vàng bên hông chùa, má cúi sát người, tôi khoanh tay làm theo. Ông sư ngồi xuống cái băng ghế cây dài giữa sân, hai má con ngồi bên theo lời ông bảo. Câu chuyện xin cho tôi được ở trọ đi học chấm dứt không lâu sau đó, trời nắng lên, má ra về, ông sư già đưa tới cổng, ông nhè nhẹ nắm tay tôi, nhìn theo, má đi xa cứ ngó lại, hình như má khóc, ông sư vẫn để yên cho, tôi òa lên khóc.

*

   Buổi chiều, đi học về, vào học chừng hai ba ngày, đứng ngơ ngơ, lẩn thẩn ngoài sân chùa, nhìn người qua người lại trên đường ngoài rào, trời còn nắng, nhớ nhà nhớ má cứ thút tha thút thít mà không biết làm gì hơn, đi tới đi lui, nghe tiếng ai đó gọi “em ơi” ngoài đường vào, tôi quay ra, một chị gái, chắc khoảng mười tám mười chín gì đó, tới sát bên hàng rào gạch, làm dấu lại gần, chị cười thật tươi, đưa cho cái bánh bò lá dứa, bảo cầm ăn, tôi bỡ ngỡ, chị luôn miệng “không ăn thì cất đi chút nữa ăn”. Tôi cám ơn cầm lấy, chị chỉ chị ở nhà bên kia đường, cái nhà cây nho nhỏ, nằm khiêm nhượng giữa mấy căn nhà gạch hai bên, chị hỏi tên, không hỏi thêm gì nữa, bỏ băng qua bên kia, tôi nhìn theo, lần nữa chị quay lại cười, trong đầu óc của thằng con trai mười tuổi thì chị đẹp lắm. Hết một tuần học đầu tiên, sáng thứ bảy má xuống quận sớm, má con mừng vui, đón xe lam về nhà chơi, ngồi bên má trên xe mà vừa thấy vui vừa thấy thương má, thương cái áo bà ba màu bùn nâu bà đang bận.

*

    Chị Mến, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với bà ngoại từ đó tới giờ, bà ngoại bị tật ở chân, đi khập khiểng, phải chống gậy, tuổi chắc cở ông sư già, giờ thấy già yếu lắm, bà chỉ đi lẩn quẩn trong nhà, lâu lâu cố bước ra sân trước, cho có chút nắng, tôi nghĩ vậy, hai bà cháu hiền lắm, ai cũng mến, chị thường chạy qua bên chùa, phụ cái này giúp cái kia, dọn dẹp chỗ này chỗ nọ nên ông sư thương chị như con cháu.

    Chị có đi học nhưng học tới lớp đệ Ngủ thì nghỉ vì cảnh nhà túng quẩn, bà ngoại không còn mạnh, hết bệnh này tới bệnh kia, không đủ khỏe để ngồi đan lưới, bán cho ghe xuồng dưới chợ, chị xin vào làm phụ bán hàng cho tiệm bán gạch ngói, xi măng, vật liệu xây cất lớn nằm dọc bên đường quốc lộ, cạnh hàng rào bến xe quận, sáng đi chiều về từ mấy năm nay.

   Chạy ra chạy vô bên chùa, nghe ông sư già nói, hỏi han qua lại tôi, chuyện ăn ở học hành, cũng mồ côi nhưng may hơn chị là tôi còn có má, thấy thằng nhỏ ngồi ăn cơm với tương chao, dưa cà mà thương nên chị cũng thường xin ông sư cho tôi qua bên nhà ăn cơm với chị và bà ngoại.

*

    Vài tuần sau, không biết chị nói gì với ông sư già, sáng sớm thứ bảy, ngày má tôi xuống đón về nhà, chị cùng tôi đứng chờ trước cổng chùa, chỗ tôi thường đứng, về nhà như mấy lần trước, tôi đã nói, không đầu không đuôi về chị Mến nên khi gặp nhau, hai người vui vẻ, chị chị em em tự nhiên, bớt ngại ngùng. Má ở lại hơi muộn, chị đưa má và tôi ra tiệm cơm ngoài ngã ba, đầu đường xuống chợ quận, ăn hủ tiếu, bánh canh, bà e ngại chối từ nhưng chị nhứt định phải đi. Trở lại chùa, hai người vô gặp ông sư già, tôi đứng lấp ló ngoài cửa hậu liêu, không biết người lớn nói gì, chập sau đi ra, có ông sư già theo ra, ai nấy cũng cười.

*

    Chủ nhật hôm sau má đưa tôi xuống quận sớm hơn thường lệ, chị ra đón rồi hai người dắt tôi vô chùa như hôm qua, cũng vào gặp ông sư già, má với chị lăng xăng, gom góp đồ đạc, mùng mền của tôi, bỏ vào mấy giỏ lát như ngày khăn gói xuống trường nhập học, ông sư già nhìn, nhắc cái này cái kia, tôi ngơ ngác, chết trân đứng nhìn. Đâu đó xong xuôi, má biểu tôi đứng sau lưng, bà cúi xá lạy ông sư già ba cái dài, lắc tay tôi, cũng như bà tôi khoanh tay cúi người xá lạy ông ba lạy rồi bổng dưng òa khóc, má và chị mắt đỏ hoe, ông sư già kéo tôi tới sát người, xoa đầu “ở bên đó ngoan nghe con, buồn thì chạy qua chơi với ông”, giọng từ tốn nhưng xong câu ông quay mặt đi. Ông theo ra tới cổng chùa, má, chị và tôi băng qua bên kia đường, quay lại chào ông lần nữa, ông gật đầu, làm dấu “đi đi”. Má vào nhà thăm hỏi bà ngoại một chập rồi chị đưa bà ra về, tôi qua ở bên nhà chị từ hôm đó.

*

    Từ đó, sáng sớm đi học, đến trường hay chiều về, có chị đi bên, hai chị em nói cười vang rân trên đường. Về tới nhà thì ngoại đã hỏi đói bụng chưa. Tình chị em, tình bà cháu ngày càng gần gũi, khắng khít hơn, tôi cũng bớt nhớ nhà nhưng trong giấc ngủ đêm vẫn cứ nhớ má, không biết giờ này má ngủ chưa hay chong đèn khuya chờ sáng, cái xe đạp cà tàng chắc cũng buồn vì thiếu tôi, má đi một mình, sáng tinh sương, chiều xẩm tối.

    Tới cuối năm đệ Tứ, trường chưa có lớp đệ nhị cấp nên tôi phải rời đó chuyển lên trường tỉnh, lần này tôi phải xa nhà hơn trước. Tin này làm chị và ngoại buồn hết mấy ngày, tôi cũng không hơn gì nhưng không làm sao khác được, bốn năm qua, tôi nhớ rõ từng bữa cơm, từng ly nước, từng cái nhắc nhở áo quần, cặp sách, của chị và của bà ngoại lo cho, kỷ niệm vui nhiều hơn buồn của tình chị em, tình bà cháu, không làm sao tôi quên được. Rồi cũng tới lúc xa nhau, hôm tay xách tay mang đồ đạc, ôm ngoại ôm chị, từ biệt mà nước mắt tôi rưng rưng, chị tặng cho tôi một cây viết máy Pilot, có khắc tên tôi và tên chị cùng ngày tháng, món quà tiễn nhau mà cho tới ngày ra trường đi làm tôi vẫn có nó bên mình.

   Tôi lên xe, chú tài xế nổ máy chờ, chị cười mà muốn khóc “em về trển ráng học, khi nào rãnh nhớ xuống thăm chị nghe” vậy thôi, xe chạy đi rồi, chị đứng nhìn theo, tôi bật khóc “chị Mến ơi”. Hai chị em xa nhau từ hôm đó.

*

    Nhà nghèo, sợ má buồn nên tôi cứ mãi chăm chú, lo học cho được, không hẳn là học ngày học đêm nhưng cố hết sức mình, bỏ hết chuyện đánh đôi đánh đọ, bè bạn cà pháo cà phê, một phần lo đi làm, bưng dẹp tiệm quán ngoài chợ tỉnh, phụ tiền cơm áo cho má đở đi lam lũ, sáng sương nắng chiều mưa dầm, một đời thân người phu cạo mủ, trong suốt gần hai năm trời.

   Đậu Tú Tài Một, nhớ chị, lâu rồi sẳn vừa thi xong, đón xe xuống quận, trước là thăm lại ngoại và chị, sau là báo tin vui. Hôm đó chủ Nhật, xuống xe, vừa sắp vào trưa, mùa hạ, trời nóng, không ngó không nhìn, cảnh cũ người xưa, phố đường không có gì thay đổi, mau chân đi tới con đường ngày đó, con đường vô chùa và nhà chị. Vô chùa trước, ông sư già ngày đó đã viên tịch năm ngoái, bà con đem ông về chôn ở dưới quê nhà Mộc Hóa. Bên nhà chị, đã có người chủ khác, hỏi qua, thiếm chủ nhà cho biết “bà ngoại chị mất sau ngày chị lấy chồng vài tuần,  từ đầu năm kia, chị theo chồng về đâu đó dưới Cái Bè, vợ chồng trở lên làm đám tang, đem chôn ngoại trên miếng đất nhà bà con gì đó ở Suối Sâu, ở nhà chồng làm dâu, những tưởng đời mình vậy là yên thân, không ngờ bên chồng đày ải quá, chịu cực chịu khổ nghe lời vì một mình tứ cố vô thân nhưng không yên, chồng bỏ bê lấy vợ bé, gia đình chồng không cản, buồn tủi, chị bỏ nhà chồng đi một sáng mờ sương mù, trời còn tối. Cũng lâu sau đó có người quen dưới Suối Sâu nói gặp chị làm gì đó trong chùa Thiền Sơn, khi họ đi xin cúng cầu siêu cho người thân, chùa do một bà sư cô già trụ trì”.

*

   Nắng lên rồi nắng lên, bên hai cái ghế cây cũ, bạc màu gỗ nâu, hai chị em ngồi đó, lặng thinh, tôi muốn nói nhiều lắm, chuyện ân tình, nghĩa ơn ngày xưa mình đã được cưu mang, nhứt là cây viết máy Pilot chị cho mà tôi đang cầm trên tay nhưng lại nghẹn giọng, đành thôi, chị Mến của tôi bây giờ, không còn là chị Mến ngày xưa nữa, ni cô Diệu Duyên, với một ni cô không ai được phép nhắc chuyện hồng trần, cỏi đời ô trọc nữa, có lẽ ni cô cũng nghĩ như vậy, có tiếng bà sư cô già nói vọng ra “sau không mời khách vào uống chút trà đi con”, chị không trả lời, nhìn tôi cười mà lặng thinh.

*

   Cũng đành quên, tôi nghẹn ngào từ biệt, chị Mến, ni cô Diệu Duyên đưa ra tới cổng chùa, không khóc nhưng lòng mình tan nát đau, quay đi ra, định nói lời hẹn ngày gặp lại nhưng chị đã nhẹ giọng từ tốn nhìn tôi nói nhỏ “thôi em về mạnh giỏi, cho chị gởi lời thăm má, nhớ lo cho bà, ngày tháng còn lại của má chắc không còn bao lâu, chị Mến của em, ni cô Diệu Duyên, trọn một đời còn lại này là con của Phật, cát bụi hồng trần trả lại cho đời, A Di Đà Phật ”, tôi chết lặng, cắn môi, chữ hẹn không còn trong đầu nữa.

*

   Tôi lẳng lặng ra đường, cổng chùa khép lại từ lâu, bước từng bước chậm, nặng nề trên đường lộ, chiếc xe lam xế trưa, về trên chợ xã chạy ngang qua vắng khách, tôi không buồn đón, quay lại sau, chị Mến, ni cô Diệu Duyên vẫn còn đứng sau cổng, tôi không dám nhìn lại lần nữa, sợ mình sẽ khóc nhưng tôi đã khóc. Chuông chiều vang lên kéo dài rứt ray, nảo nuột. Chừng nào mới gặp lại chị, tôi chưa biết, chị Mến của tôi đó, người ni cô tôi biết.

 

Thuyên Huy

 

 

Tuesday, December 2, 2025

Thôi Em Về - Thuyên Huy

 Thôi Em Về




Cô Lái Đò Thời Kháng Chiến - Mai Thảo

 

Cô Lái Đò Thời Kỳ Kháng Chiến



 

Liễu nằm thu mình, bất động, trong lòng khoang con đò nhỏ hai đầu đóng kín. Khuôn mặt Liễu nghiêng nghiêng, đôi mắt nàng mở lớn, vành tai dương căng hướng lên vùng trời đoán thấy những giải mây trắng nõn đang bay theo chiều gió trên đầu.

Ở Liễu, là sự hiển hiện rõ ràng một tập trung tận cùng của thần trí tỉnh táo lắng đọng trong một nghe ngóng cực kỳ thận trọng. Rồi hai vành môi mím chặt hé mở từ từ cho hơi thở giam nhốt đầy chặt trong lồng ngực được thoát ra. Bây giờ, Liễu mới cựa mình và thở. Chúng nó đến, với những tràng liên thanh tặc tặc bắn chéo, những tiếng vang động long trời lở đất. Chúng nó đến, gầm réo, lồng lộn, rú thét, kín rợp đôi cánh mênh mông như một loài quạ đen khủng khiếp, với ba màu cờ tam tài đau đáu trên thân. Chúng nó đến, vút thoáng đã tới, chớp mắt đã gần, bất thần và kinh dị. Nhưng chúng nó đã trở về căn cứ rồi.

Trong không gian yên tĩnh của buổi chiều miền núi tàn nắng, tiếng động cơ lắng xuống, lảng đi, xa dần rồi mất hút. Mất hút về một hướng phi trường Bạch Mai. Và qua vòng đai trắng, qua những vùng tề, mất hút về một hướng chân trời Hà Nội.

Như một con thú ẩn mình trong hốc tối, bây giờ tai nạn đã đi qua, Liễu khoan khoái ngồi yên. Vuốt lại áo. Vấn lại tóc. Đoạn, cúi lom khom trong lòng khoang chật hẹp, nàng đẩy mạnh tấm phên che cho dạt sang một phía, nhoài người bước ra đầu mũi con đò chòng chành. Trên đầu, những cành thấp lả ngọn vướng vào mái tóc. Không khí mát rượi, thấm đầy hơi nước từ lòng con sông óng ánh soi gương phả lên, bao trùm da thịt Liễu trong một ve vuốt nhột nhạt, Liễu ngửa cổ, nhắm mắt, ngây ngất đón lấy như để yên cho hai cánh tay một người tình đan quấn khít khao nồng nàn từ trước ngực đến sau lưng. Như thế một lát. Trong buông thả và thư thái hoàn toàn. Rồi Liễu tựa mình vào thành mui, đưa mắt ngắm nhìn cảnh vật chung quanh.

Ngày đang rút vơi, đang thu hẹp, cho hoàng hôn xuống. Một hoàng hôn trên sông, một hoàng hôn miền núi, lồng lộng những dáng hình và màu sắc phản chiếu, hắt trả, chen lồng vào và xếp chồng lên nhau thành từng từng chiều hướng ánh sáng và bóng tối thăm thẳm. Bóng núi lẫn chìm trong bóng nước. Màu sông cũng màu trời.

Và buổi chiều thì khác thường và dữ dội đẹp. Điệp điệp trùng trùng chạy dài đến vô tận trong hoang dậm kín đặc, những đỉnh núi ban ngày lòa nắng đang đổi màu, đang tím lại. Mặt sông bao la còn lênh láng dáng chiều đỏ thẫm, nhưng ngó gần, những con nước lờ đờ say đã gợn gợn khép mắt. Gió liên hồi thổi tới từ vùng nhờ sương của cánh rừng già đuổi nhau với một bờ bãi thấp thoáng ghe chài và làng xóm bên kia. Người ta bắt đầu nhen lửa thổi cơm chiều. Máy bay về rồi. Cuộc sống hồi sinh. Từ chỗ nàng đứng, Liễu nhìn thấy những búp khói xanh đầu tiên vươn lên, sau những lùm cây.

Bỗng Liễu giật mình. Nàng vừa chợt nhớ ra điều gì. Khuôn mặt phơi phới bình yên của Liễu thoắt đọng lắng thành một hoảng hốt trầm trọng. Liễu kêu khẽ: “chết thật”, đoạn chui băng qua lòng con đò về đầu lái đằng kia. Không nhìn thấy Liễu trong khoảnh khắc. Chỉ thấy con đò chòng chành dữ dội bởi sự đổi chỗ vội quýnh với những vòng nước xao động tỏa rộng quanh mạn. Rồi Liễu nhô lên, và nàng vươn tay cởi nhanh sợi giây buộc cột chèo vào một nhánh cây trên bờ lả xuống thấp nhất, gần khoang lái. Con đò được tự do. Liễu xoay ngược mũi chèo, đẩy mạnh vào bờ đất. Con đò từ trong đáy kín chỗ ẩn nấp um tùm lấp khuất của nó băng băng trôi ra cái lồng lộng thoáng mát giữa dòng.

Bằng những cử động nhịp nhàng liên tục, nửa thân cúi rạp về phía trước, ngả ưỡn về phía sau, Liễu bặm môi ngừng thở, chèo miết. Nàng chèo. Nàng chèo bằng tất cả sức mạnh truyền xuống hai cánh tay và dâng lên trong đầu óc. Chiều rừng thẫm xuống. Núi tím hẳn. Dáng chiều chìm dần xuống đáy nước đã len đầy bóng tối thăm thẳm. Mái chèo cất cao bổng. Bọt trắng tung tóe. Mái chèo bổ mạnh xuống, vục sâu vào lòng nước.

Con đò như một mũi tên nhẹ lướt đi vun vút. Mặc dầu gió thổi đầy tràn trong tóc làm phồng lên và đập phần phật tấm áo cánh vải phin trắng nõn, nhưng Liễu chỉ cảm thấy bừng bừng độ nóng lan tràn cùng khắp thân thể. Đôi mắt Liễu long lanh hướng thẳng về cái trước mặt đang gần lại. Vầng trán nàng lấm tấm mồ hôi. Vành môi lúc hé mở cho nhìn thấy những đầu răng óng ánh, lúc mím chặt lại trong một tập trung sức lực muốn dồn trút nhiều hơn nữa xuống mái chèo.

Đã hết một khúc quanh khuất nẻo của dòng sông. Những hình ảnh di động thoáng thoáng trên mặt bến đá nhìn thấy ở xa xa hiện ra. Bấy giờ từ chỗ ẩn nấp dưới bóng cành lả ngọn trông theo, con đò chỉ còn nhỏ như một chiếc lá băng băng ngược dòng và Liễu chỉ còn là một cái chấm trắng ly ty in hình lên nền núi đã nghiêng xuống độ thẫm cuối cùng của màu tím than.

Hà Nội 1945. Nhấy dù mũ đỏ nổ súng bắn chết người thanh niên tự vệ thành thứ nhất ở dốc Hàng Bún, và mấy tháng sau, Liễu đã hết là cô gái bán hàng của chợ Cửa Nam. Như cái đám đông nhàn hạ của ba mươi sáu phố phường thanh lịch, đám đông ấy thoắt tuôn tuôn xô dạt như một dòng thác về năm cửa ô kinh hoàng, lửa đạn bùng cháy thành sự thay đổi lớn lao nhất của đời Liễu.

Nàng vừa hai mươi tuổi. Đẹp, vẻ đẹp mặn mà tình tứ, tuy chẳng phấn son, nhưng đời sống lao động hàng ngày khô- ng hủy diệt được những nét điệu thanh thoát là sự duyên dáng đặc biệt của người thiếu nữ Hà Nội mơn mởn dậy thì trong toàn thịnh tuổi hoa. Bất hạnh không đợi chờ lâu đề đổ ập xuống mái tóc đen mun óng ả chảy dài như một dòng suối của Liễu ngay từ những dấu chân thứ nhất trên những ngả đường đào ngoài Hà Nội.

Đi cùng với mẹ, chỉ mới chạy ra tới vùng Hà Đông, mẹ nàng đã bỏ mình dưới làn mưa đạn của phi cơ oanh tạc Pháp. Cái hầm trú ẩn lộ thiên bên bờ đường ấy không bảo toàn được cho một đời sống đã về chiều. Băng đạn trút xuống cách Liễu không đầy một gang tay. Nàng thoát chết, để nhỏ những giọt lệ đầu tiên trong cuộc đời khởi sự hứa hẹn rất nhiều điêu linh và bóng tối, trên cái tử thi dúm dó của người mẹ xấu số. Một thân một mình, Liễu đi thêm những đoạn đường. Mỗi đoạn đường mở rộng thêm vào lang thang không định. Cuộc sống chỉ còn là một ngọn triều. Tầm mắt chỉ còn là hun hút chân trời, những mịt mùng nắng mưa dãi dầu bay nghiêng qua những vùng trời xa lạ. Và Liễu, trong ngọn triều kín trùm toàn diện, chỉ còn là một con phao. Ngày tháng nối đuôi thành cái trạng thái mê mẩn chập chờn của một cơn mộng dữ dũa mòn hết ý chí, pha loãng hết trí nhớ.

Vật vờ cuốn theo. Buông thả trôi đi.

Những buổi chiều, bàn tay đặt hững hờ trên mái chèo cho con đò nhẹ dập dình theo dòng nước, những đêm trăng sáng, trăng bát ngát đầy trời, đầy sông, đầy thuyền, nằm nhìn lên cái đĩa ngọc lạnh lùng treo cao trên không gian, Liễu ôn lại, cũng không dựng nổi được trong hồi tưởng, trình tự những xô đẩy những chuyển đổi đã đưa nàng tới vùng rừng núi Nho Quan thâm u và khuất nẻo này. Tại sao đời nàng lại đặt nổi trên cái diện tích bồng bềnh hẹp nhỏ của một con đò chở người thời chiến? Tại sao nàng trở thành một cô lái đò? Tại sao nàng lại làm bạn với nước chảy, với lau lách và bãi bờ? Không nhớ nữa. Dĩ vãng mờ hơi sương. Kỷ niệm chỉ là những xâu chuỗi lung linh phai tàn và người con gái bán hàng chợ Cửa Nam trong Hà Nội nghìn trùng cách trở ngày nào, người con gái ấy đã bị chiến thời giết chết.

Duy có một điều Liễu nhớ. Nó in hằn trong đầu, nhập lặn vào tiềm thức thành một ám ảnh đeo bám thần trí không rời. Đó là cái chết của mẹ nàng. Bà nằm trong một cái hầm lộ thiên kế liền bờ đường, và đã bị một băng đạn liên thanh từ trên máy bay bắn chết. Cho nên Liễu sợ máy bay như con chim bị tên sợ bất cứ một đường cong nào. Sợ không thể nào tả được. Buổi sáng, mặt trời vừa nhô lên khỏi dãy núi bên kia sông, con đò của Liễu đã nằm gọn trong chỗ ẩn náu kín khuất của nó dưới cái tán um tùm xanh đặc của lá cành lả ngọn từ bờ thật xa ra ngoài mặt nước.

Chọn được cái bóng cây ở khoảng sông khuất nẻo làm chỗ ẩn cho con đò tránh máy bay, Liễu nhớ đã phải dành trọn một ngày tìm kiếm. Nàng còn cẩn thận ngắt thật nhiều cành lá gài kín mui đò và trải đầy cả đầu mũi lần cuối lái. Dấu con đò đến như Liễu dấu, ngụy trang cho con đò đến như Liễu ngụy trang là tới mức tận cùng của một thận trọng thường trực. Như thế suốt ngày. Từ sáng qua trưa tới chiều. Từ mặt trời lên. Bóng cây xanh um tùm của khúc sông khuất nẻo xa đường cái, xa làng xóm chợ búa là một thứ hang hốc an toàn cho Liễu, như một con thú khiếp đảm, chỉ dám xuất hiện khi có lý do chắc vững tin tưởng những chiếc máy bay gieo rắc cái chết khủng khiếp không còn lại vãng bén mảng vào vùng trời trên đầu.

Hoàng hôn xuống, mặt trời lặn, máy bay từ Hà Nội bay ra máy bay trở lại về Hà Nội, Liễu mới dám thả đò về bến đá Nho Quan đón khách. Ánh đèn lái lấp lánh mặt nước những đêm tối trời, như những đêm trăng đãi ngọc đầy khoang, Liễu chèo suốt từ chập tối cho tới tảng sáng, Nếp sống đảo ngược hoàn toàn. Đêm là ngày, ngày là đêm. Ngày ngủ vùi, đêm thức trọn. Khách xuống đò Liễu, chui vào khoang, cứ việc ngả mình trên cái chiếu hoa mới còn thơm mùi cói, đánh thẳng một giấc đẫy mắt, mặc cho Liễu làm bạn với mái chèo khua nước róc rách, suốt đêm như thể không nghỉ không ngừng, không bao giờ mỏi mệt. Chèo bằng tay chán thì bàn chân thay tay, bằng nằm ngửa ra mà chèo, cũng dẻo cũng mau không kém. Đi về trên những bến bờ của dòng sông Đáy và các nhánh sông con của hai tỉnh Ninh Bình và Hà Nam như thế đã gần hai năm thì Liễu gặp một người khách lạ: tình yêu.

Bát ngát trên dòng sông ngời ngời, bao la khắp vòm trời ngợp ngợp, đêm đẹp nhất đời Liễu chỉ còn là một biến trăng lung linh vô tận. Bờ bãi, cây cối, những nét núi xa ngu ngơ kéo dài từng vệt mờ ảo trong sáng trắng vằng vặc. Cái bến đá Nho Quan không nhìn thấy nữa ngoài thứ ánh sáng mờ yếu của một vài ánh đèn le lói. Và bây giờ thì, mái chèo gác cao, con đò lững lờ thả buông trên cái gợn gợn giữa dòng.

Người trẻ tuổi gối đầu lên cái bạc đà, thứ bạc đà dãi dầu mưa nắng đầy những dấu tích gió bụi đường trường của người đi công tác trong thời kỳ kháng chiến.

Y nằm ngửa, cởi trần, hai bàn tay đan vào nhau, đặt yên giữa ngực, nhìn không chớp lên cái đĩa ngọc treo xa thẳm trên mông mênh không khí. Liễu nằm bên cạnh, và Liễu cũng nhìn lên nền trời xanh biếc ánh trăng. Gió lùa đầy theo một nhịp tràn đầy không dứt. Khoang thuyền nhễ nhại sáng. Tiếng nước hai mạn róc rách như một lời tình tự thì thầm. Nhưng sự có mặt lớn nhất trên dòng sông vẫn là im lặng. Một thứ im lặng rất không gian êm ái thấm nhập ngọt ngào từng đợt vào thân thể, và trong một khoảnh khắc, Liễu khép mắt lại để tận hưởng sự im lặng riêng tư kỳ thú đó.

Người đàn ông chợt xoay nghiêng, cho nhìn thấy Liễu. Những ngón tay y đùa nghịch hững hờ trên những sợi tóc vương xuống trán nàng, Liễu rùng mình đón nhận sự âu yếm bắt đầu.

–Ban nãy em có nhận ngay thấy anh không?

–Thấy từ xa. Anh đeo ba lô, anh đứng riêng và đứng trên chỗ cao nhất.

Người đàn ông cười nhẹ. Trăng đầy trong mắt Liễu từ từ mở lớn.

–Anh đứng trên chỗ cao nhất, cốt cho em nhìn thấy mà!

Liễu dụi dụi mái tóc nàng vào một bên cánh tay rắn chắc của người đàn ông, nhớ lại lúc nàng buông mái chèo cho con đò cập bến đá.

–Lần sau anh nhảy xuống, nương chân một chút. Nhảy mạnh quá chừng. Suýt nữa đắm đò em.

–Đắm đò thì chúng mình cùng ôm nhau cùng chết. Cùng ôm nhau mà về kiếp sau.

Liễu đặt vội tay lên miệng người yêu như muốn ngăn lại lời nói gở miệng. Gở miệng, nhưng nàng sợ mà sung sướng uống lấy, uống lấy từng tiếng. Cùng chết. Cùng đưa nhau về kiếp sau. Vàng đá thủy chung và đằm thắm gắn bó đến thế là cùng.

–Anh!

–Gì em?

–Kiếp sau như thế nào?

Người đàn ông nằm trở lại, cười lên vòm trời:

–Chúng mình còn sống, làm sao anh biết được. Kiếp sau chắc là một thiên đường đầy đặc những lứa đôi yêu nhau mà thế gian này làm cho xa cách và đau đớn. Một vườn tiên đầy bướm hoa, vĩnh viễn mùa xuân thơm.

Liễu nghĩ khác. Kiếp sau trong hình dung lãng mạn của nàng là im lặng bao la, im lặng mênh mông như cái im lặng nhễ nhại ánh trăng của dòng sông đêm, con đò lững lờ thả buông là một hòn đảo thiên đường, nàng nằm bên cạnh tình yêu tuyệt đối, phơi phới ở ngoài mọi bến bờ tục lụy. Kiếp sau chính là một đất trời vô tận trắng dãi. Cả một kiếp sau là của riêng nàng và chàng, không có kẻ thứ ba. Những rừng cây ngút ngàn chạy dài không một tiếng động của lá rụng. Những con sông chở trăng ra biển, biển trăng và sông trăng không gợn một tiếng nước chảy một lời sóng đập, chỉ là những tấm gương long lanh in bóng một hạnh phúc đời đời.

Kiếp sau là tựa đầu trên vai chàng, nghe nhịp đập bình yên của trái tim chàng, là cái hình ảnh nguyên thủy đó của trái đất và người đàn ông thứ nhất và người đàn bà đầu tiên không bao giờ xa mất nhau. Kiếp sau là tự nhiên, và khỏa thân yêu trên một cõi đời yên lặng chỉ có hai mái đầu và mênh mông trắng đẹp. Kiếp sau là hai trong một. Như chàng và Liễu phút này, nằm bên nhau trong một khoang trăng đầy, giữa rời rợi nước chảy.

–Bao giờ anh lại đi?

–Lát nữa. Gần sáng.

Lát nữa. Trăng chưa lặn, chàng đã lên bờ, bóng chàng đã nhỏ, chàng đã đi xa. Liễu biết mà vẫn hỏi, và biết chàng trả lời mà nghe rồi, trái tim vẫn chảy máu, lòng vẫn dao cắt. Thân phận của người lái đò trong những tháng ngày lửa đạn là thế đó. Con đò là hình ảnh đời nàng. Lênh đênh giữa dòng. Sớm đụng bờ này chiều dạt bờ kia, nhưng không có một bến đậu nào làm sự che chở bền vững.

–Anh ở xa em có nhớ anh không?

Nhớ, Nhớ, Nhớ, Đêm đêm ngày ngày, sáng sáng chiều chiều. Khoang đò lạnh như lòng. Đêm sông dài như hồn. Chiều rừng nào cũng bốc cao thành những đỉnh nhớ ngút mắt, Liễu nhớ từng ngày người tình về như con nước về mỗi tuần trăng, từng phút người tình đi như lòng sông sớm mai con nước rút đi cho nổi hình cái cạn khô bờ bãi.

Tất cả bắt đầu từ một chuyến đò. Người ta gọi đó là một chuyến đò nên duyên, một chuyến đò định mệnh. Người đàn ông là mây bay trên trời, và Liễu là một phận bèo trôi dạt, Lửa đạn ở giữa họ làm cho hội ngộ lần đầu và một vài lần trùng phùng hiếm hoi sau đó đều chứa đựng một cái gì bàng hoàng đau đớn, như hạnh phúc chỉ là cái ảnh hình hư ảo của chiêm bao. Tình yêu đi thành thủy triều, làm Liễu nghẹt thở và chết đuối. Tình yêu như nhễ nhại và chan hòa trăng rót điệp điệp suối vàng vào cái vũng đời Liễu đã tối trời còn lạnh buốt mưa bay. Và Liễu, mỗi lần chàng hẹn, chàng về, chàng đứng đó, trên bờ đá cao, thân hình chàng in sâu vào nền trời đã lồng lộng gió chiều, nhạt nhạt dáng chiều, nàng đều đón nhận sự gặp lại ấy như thảng thốt bất ngờ của một diễm phúc mới tự trời cao rót lạc xuống lòng tay.

Chiến tranh bao trùm và Liễu nhận lấy cái sự thực tàn bạo của nó. Hà Nội đã xa, mẹ nàng đã chết. Sống biết từng giờ, sống đo từng phút. Những chiếc máy bay ngày ngày ào tới, lửa đạn trút xuống, cái chết mù quáng không lựa chọn để riêng tha cho một cuộc đời nào. Cho nên yêu và nhớ ở Liễu không đắn đo, không kìm giữ, thả buông tận cùng thành một trạng thái đớn đau, một điên cuồng tuyệt vọng.

Đêm khuya hơn, trời cao hơn, trăng xanh hơn trong yên lặng lớn. Tiếng người đàn ông chợt len sâu vào tóc, Liễu nghe rót êm vào hồn nàng như tiếng sóng rì rầm quanh mạn:

–Em lạnh không?

Liễu chưa kịp rùng mình, khuôn mặt người đàn ông cúi nghiêng trên khuôn mặt nàng đã làm tối lại tầm mắt bằng một sầm tối nồng cháy. Rồi con đò nghiêng đi bởi một rời đổi đột ngột của chỗ nằm, và thân thể Liễu bị đè nặng bởi một đè nặng cực kỳ êm ái. Trong một khoảng khắc ngắn ngủi, với sự ghi nhận thảng thốt của lý trí về một phản ứng cưỡng chống yếu đuối nửa vời, Liễu biết nàng không kìm giữ được nữa, Mấy lần trước chàng về, Liễu đã kìm giữ dược.

Thân thể nàng, da thịt nàng bao lần đã nhận chịu sự ve vuốt đó, một sự ve vuốt trăm nghìn, như không phải chỉ có hơi thở, lời nói, những ngón tay và thân hình đè nặng của người đàn ông ve vuốt, mà còn những cánh tay mê mẩn, những hơi thở nồng nàn của đêm, của trăng của không khí thơm tho ngọc thạch chung quanh, của ánh trăng tắm đẫm trên những đầu dây thần kinh phơi phới ve vuốt. Nhưng tới cánh cửa lơi lả cuối cùng của mở ngỏ thiếu nữ, cánh cửa đó lần nào Liễu cũng đóng kịp lại được khi tình yêu là một mũi nhọn sắp băng qua.

Đêm nay thì không. Nàng đêm nay yếu hơn nàng từng đêm trăng trước. Lát nữa chàng lên bờ rồi, và mất hút vào xanh đặc núi rừng. Lẽ tất nhiên chàng sẽ hẹn trở về. Nhưng tuần trăng tháng sau, con đò đến đón người trên bến đá, tròng mắt Liễu biết có còn được mừng rỡ ánh lên trước cái bóng hình yêu dấu đứng đợi chờ nàng trên cao?

Sống chết đã không hẹn giờ, tất cả nằm trong cái hiếm quý vô ngần của một đêm trăng sáng. Thôi nhé, đừng cưỡng chống. Và Liễu nhắm nghiền mắt lại, đầy trăng ra khỏi tròng. Bằng một tiếng kêu ngân đi không cùng trong im lặng hoang đường xanh biếc chung quanh, Liễu phá vỡ cái bờ cuối cùng của đời nàng, thả mặc cho dòng đầy tình yêu dào dạt băng đi.

Khi Liễu tỉnh dậy, trăng đã lu và sắp lặn xuống bên kia sông, trên một đầu núi. Con đò ướt át bồng bềnh trong một biển sương mù kín đặc. Người đàn ông hôn một lần cuối cùng lên mái tóc nàng và Liễu biết đó là dấu hiệu của tình yêu từ biệt. Liễu rên khẽ một tiếng nhỏ nũng nịu trong cổ họng, lăn vào sự ấm áp kế liền. Nhưng một cánh tay đã đẩy nhẹ nàng ra. Và một bàn tay đã lắc lắc vai nàng cho Liễu tỉnh ngủ.

-Đêm rằm tháng sau anh lại trở về.

-Đưa anh vào bờ.

Liễu không nhớ rõ được nữa. Chỉ thoang thoáng mơ hồ là nàng đã đã ngồi lên, đã hạ mái chèo xuống nước, tai nàng lại nghe thấy róc rách nổi lên tiếng chèo vặc vào lòng nước chập chờn sương tỏa trắng xóa, rồi cái bến đá ướt át lờ mờ hiện ra trước tầm mắt còn nặng trĩu giấc ngủ, và tiếng đầu mũi đò trong một va đụng lạt sạt.

–Trời sắp sáng rồi. Em chèo thẳng về bóng cây, cột buộc đồ và dấu kín nó cẩn thận rồi hãy ngủ tiếp.

Người đàn ông căn dặn Liễu đó. Câu nói lại cuối cùng của y đó, trước khi đeo bạc đà bước nhanh lên bờ.

–Đẩy đò ra cho em.

Một bàn chân đạp mạnh. Con đò chòng chành lùi trở lại con đường trôi dạt của nó từ cái bến đá ra đến giữa dòng. Và Liễu, trong một hơi thở dài mỏi mệt kỳ thú, đã buông rơi mái chèo, nằm vật xuống. Trận tình trên cái bao la bát ngát giữa dòng trắng đã thổi qua thân thể bốc cháy của Liễu như một trận bão. Liễu đương căng tận cùng cảm giác, đón nhận sự tàn phá thần thánh. Mê đắm một dòng đầy.

Và Liễu như một con phao nổi chìm tan tác. Cuộc đời thiếu nữ vừa chết, khai sinh ở Liễu những cảm giác và một trạng thái kỳ lạ. Miệng nàng hé mở, ánh mắt lim dim, vầng môi hé mở không thôi cười với giấc mơ nõn nà chưa dứt. Trên từng tấc da thịt tuyềnh toàng, còn như bừng bừng in hẳn những ve vuốt chiếm ngự bốc lửa, bỏng rát và ngất ngây say.

Tay chân Liễu như đứt rời khỏi thân thể. Thân thể hững hững hờ hờ, không thuộc về nàng, không còn của nàng. Đó là cảm giác của một trút thoát lâng lâng, một tan nát lả lả, một choáng váng ngà ngà.

Đêm sắp tàn ở đâu, ngày sắp sáng ở đâu, mặt trời sắp lên ở đâu, có lẽ, có thể, không biết nữa. Nàng nằm lịm, bất động trong sự mỏi mệt kỳ thú, như một cái võng hoa dìu dần nàng xuống đáy cùng của một vũng thơm.

Đầu óc Liễu nặng dần, nhòa dần. Chàng dặn: “Em nhớ đưa đò về ẩn dưới bóng cây xong hãy ngủ”, Liễu nhớ chàng dặn chứ. Hình ảnh người mẹ bỏ mình dưới tràng đạn liên thanh từ trời cao trút xuống. Tai nạn khủng khiếp. Cái chết thảm thê. Mặt trời sắp lên và máy bay sắp tới. Những chiếc máy bay gầm réo, rú thét, với màu cờ tam tài đau đáu trên thân, những chiếc máy bay từ Hà Nội bay ra, rợp đôi cánh lớn mênh mông như một loài quạ đen khủng khiếp.

Đừng ngủ. Không được ngủ. Phải đưa con đò về cho ẩn kín vào cái xanh đặc um tùm của một bóng cây ven bờ. Liễu biết, Liễu nhớ. Chàng đã dặn. Phải làm thế, phải làm thế. Nhưng trận tình dữ dội đã biến Liễu thành một khối bất động kỳ thú muốn kéo dài và không muốn ra khỏi.

Cử chỉ cuối cùng của Liễu là cố ngóc đầu dậy, khi con đò đã lênh đênh trôi tới giữa dòng, và cánh tay, bằng một cố gắng trong mỏi rời, chới với vươn tới một đầu mái chèo. Nhưng bàn tay Liễu thì không bao giờ, không bao giờ nắm được mái chèo ấy. Trạng thái mỏi mệt và tan nát thần tiên kỳ thú đã lại đẩy Liễu ngã vật xuống. Môi Liễu hé mở. Nàng mỉm cười, và nàng lại thả buông cho cảm giác nàng trôi lâng vào dòng hoan lạc còn đầy trong thân thể. Hai cánh tay ghì lại, tìm kiếm nhau như ôm giữ khít khao một thân thể vô hình yêu dấu, Liễu gục đầu xuống ván đò, mỉm cười và ngủ thiếp đi.

Mặt nước ở phía dưới rực rỡ mặt trời vừa mọc. Chiếc máy bay đã vượt qua dòng sông thì tên phi công mũi lõ chợt nhìn thấy cái hình dáng thon dài của con đò phơi mình dập dình trên cái vùng gờn gợn sáng lòa giữa dòng. Suốt đường bay, tên lính lái chiếc phi cơ oanh tạc chưa tìm ra một mục tiêu nào. Dưới đất địch, mọi hình thái của sự sống, mọi chuyển động, mọi sự vật đều đã mất dạng, đã ẩn kín. Thôi thì bằng lòng với cái mục tiêu bắn phá tầm thường là con đò giữa dòng vừa nhìn thấy.

Chiếc máy bay quay đầu. Và như một con diều hâu vừa tìm thấy mồi, máy bay lượn nghiêng một vòng rồi là là hạ thấp xuống. Vang động tiếng gầm rú kinh hoàng của đâm bổ chớp nhoáng. Đầu phi cơ lòe lửa. Buổi sáng núi rừng yên tĩnh ngừng bặt hơi thở trong tràng đạn long trời lở đất. Mặt sông nổi sóng dữ dội như một cơn lốc phũ phàng băng qua. Khi chiếc máy bay cất bổng đôi cánh lớn của nó lên trong vùng chói mặt trời, cũng là lúc con đò trúng đạn lật nghiêng và chìm xuống. Và Liễu thì đã vẫn bằn bặt mỉm cười mà rơi chìm xuống cái đáy thăm thẳm rười rượi và tận cùng của tình yêu.

Mai Thảo

Trích từ Tuyển Tập “Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật”

 

 

Những Bài Hát, Những Cơn Mưa - Nguyễn Liên Châu

 Những Bài Hát, Những Cơn Mưa

 




















Gởi Trần Tiến Dũng

Mỏi nhịp
mưa nghiêng
Những hạt tình thoi thóp
Cuối chân trời giọng thê thiết vọng ngân
Cầu vồng rưng rức tay che
Những ca khúc người chờ tạnh được nghe
liêu trai
ảo dị
hoang đường
Rờn rợn hơi xưa
Giọng nữ cao ăm ắp lời dụ dỗ

Những sầu khúc tình nhân
Dầm mình đi suốt mưa hoang
Gặm nhấm điệu chiêu hồn
Chiều khăn sô
Gọi nhân gian hồi sinh lúc mưa thôi hát
Ngu ngơ thân xác đòi yêu
Ngọt ngào ứ nghẹn cô đơn

Những bài hát sau những cơn mưa
Nồng nàn mùi rơm rạ và hương tóc đàn bà
Ngai ngái xông
tràn trề tỏa
sung mãn gợi
Tội lỗi kiêu sa đứng đầy mặt đất
Chờ phút thăng hoa

Mưa cũng là một ca khúc
Buồn
rất buồn
Nỗi hận tình căm ghét những cơn mưa
Thù oán cả sự tròn trịa của một loại hình ngôn ngữ
Hoang tưởng nhịp mưa
Khát bỏng nhịp lòng
Mỏi nhịp
tàn xanh

Mưa vô ngôn những ca từ ngộ nhận
Nhân gian lộng ngôn cả những âm tiết cần thiết phải đánh vần
Những bài hát và những cơn mưa
Giấu trong tim mình lưỡi dao đồng lõa

Nguyễn Liên Châu

 

Bức Tranh Cổ - Thủy Lâm Synh

 

Bức tranh cổ




 

Chú tôi là người ưa sưu tầm tranh cổ, chưa lần nào ông lại sung sướng như lần nầy vì ông đã mua được một bức tranh mà ông tin rằng đó là bức tranh vô giá.

Câu chuyện đưa đẩy chú tôi đi đến việc mua bức tranh khá giản dị. Ông nghe đồn có một người lạ vừa dọn tới làng nầy ở. Người ấy đã không chịu nổi cảnh túng thiếu của gia đình trong những ngày năm hết – tết tới, nên phải bán bức tranh gia bảo đó đi. Cũng có người bắn tiếng rằng bức tranh cổ đó đã có nhiều người dù nài nỉ mua với giá cao, nhưng người hàng xóm mới dọn tới nầy vẫn không thể bán vì lẽ những lời trối trăn của nội và cha ông ta cứ văng vẳng bên tai: “dù cho khổ sở đến đâu cũng đừng nên bán bức tranh nầy bởi nó là vật gia bảo của giòng họ nhà ta. Trên thế gian nầy sẽ không bao giờ tìm được bức thứ hai”.

Nghe láng giềng đồn đãi như thế, tính hiếu kỳ của chú tôi thêm kích thích nên ông thường lân la tới làm quen với người hàng xóm mới nầy. Điều đó hơi lạ bởi vì trong làng chú tôi thường chỉ giao du với nhóm thượng lưu, địa chủ. Nay chú tôi lại la cà đến một túp lều đơn sơ như thế nầy khiến thiên hạ xầm xì. Sau thời gian tới lui tâm sự, chú tôi được biết người hàng xóm mới nầy nguyên trước ở một huyện khác, nhà ông ta lại gần bờ con sông. Trận lụt lớn của mùa đông vừa qua đã trôi đi ngôi từ đường của giòng họ nhà ông ra biển. Đồ đac trong nhà đều bị nước cuốn phăng đi. Người hàng xóm cho biết ông phải tranh đấu vô cùng vất vã với cơn nước xoáy mới giành lại được chiếc rương gỗ đựng giấy tờ, khế ước ruộng nương và trong dó có cả bức tranh mà lâu lắm ông quên khuấy đi. Giọng người hàng xóm trở nên bùi ngùi như tiếc của cải đã mất mát, đôi mắt ông ta chớp lia, hai môi mím chặt để khỏi bật lên tiếng khóc, nếu ai để ý sẽ thấy chú tôi thoáng xúc động.

Và mỗi lần chú tôi đến chơi, người hàng xóm dù đang bận việc như chẻ lạt, đánh tranh cũng ngừng tay chạy vào nhà lôi ra bình trà nóng đang dựng trong vỏ trái dừa khô, hai cái ly vàng ố như lâu ngày không rửa. Đặt ly và bình trà trên chiếc bàn thô thiển ngoài hiên rồi rót nước mời chú tôi. Đối với chú tôi, loại trà nầy ông thường không thèm uống, nhưng người hàng xóm lịch sự quá thành ra ông cũng hết chén nầy đến chén khác. Chú tôi lung khởi nhập đề để xin xem bức tranh mà ông đã từng nghe kể lại. Như thông cảm được ý chú tôi, người hàng xóm mời ông vào trong, và mời chú tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu đang đặt giữa nhà. Người hàng xóm vào trong mở rương dài lấy ra bức tranh treo lên cái đinh đóng sẵn trên vách đất phía bên phải bàn thờ gia tiên. Nhìn sơ qua bức tranh, một buổi hoàng hôn ảm đạm, lòng chú tôi đã nảy ra ý khinh miệt, ông cho đó là tác phẩm của một tay họa sĩ rất tồi – một cây tùng cổ thụ cành lá sum suê đứng nghiêng mình xuống ao như chờ trăng lên soi bóng. Nhưng ánh trăng non vẫn núp sau cây tùng chỉ phản chiếu loang loáng trên mặt nước gợn lăn tăn nhiều vòng tròn như tự dưới ao một con cá đang trồi lên đớp mồi. Nền trời tím thẫm như than, một vài vì sao lấp lánh. Một loại tranh dân gian không đặc biệt, nhái lại các bức tranh Tàu đã có tự ngàn xưa mà chú tôi đã thấy treo nhan nhản ngoài chợ. Cái ý khinh khi còn trong trí chú tôi, ông thầm nghĩ “Chắc khó ba đời, nên họ cho bức tranh nầy là quý chăng!”. Tuy nghĩ vậy, nhưng cái đặc biệt của bức tranh ở chỗ chẳng có gì đặc biệt lại khiến chú tôi phân vân muốn tìm hiểu thêm. Cũng giống như khi xưa có nhà toán học cứ cắm đầu chạy theo mảnh ván nhỏ của chiếc xe ngựa để cố chứng minh một định đề chưa khám phá ra.

Ấy vậy mà sau nhiều ngày lui tới nhà người hàng xóm, chú tôi như ngộ ra vì đã tìm được giá trị thực của bức tranh mà ông nghĩ rằng vì mãi cất trong rương nên người chủ của nó hiện tại không hề hay biết. Hơn nữa, “một gã nông dân thất học như hắn làm gì biết thưởng thức tranh cổ”. Chú tôi nghĩ bụng như thế nên đưa ra đề nghị cùng người hàng xóm xin nhượng lại bức tranh với giá 200 lượng bạc, tương đương với ba mẫu ruộng tốt thời đó. Sau khi trả giá như thế, người hàng xóm chưa trả lời dứt khoát, chú tôi không đến nhà người hàng xóm nữa vì ông muốn chứng tỏ cho đối phương biết rằng không bán thì thôi chứ ông không tha thiết cho lắm. Quả nhiên người hàng xóm trúng kế chú tôi, ông ta gọi chú tôi đến để bán bức tranh nhưng đưa ra một điều kiện là khi nào làm ăn nên nổi ông sẽ mang tiền tới chuộc lại bức tranh theo thời giá. Dù chú tôi đã mê bức tranh đến độ đêm quên cả ngủ, ngày quên cả ăn, ông vẫn đồng ý ngay vì ông quan niệm rằng “của vô nhà khó như gió vô nhà trống”. Chú tôi còn chủ quan tin tưởng rằng cái nghèo sẽ đi theo người hàng xóm nầy đến hết cuộc đời, làm sao mà ông ấy có tiền để chuộc lại bức tranh, hơn nữa; chắc gì lúc ấy giá trị bức tranh là con số 200 lượng. Đó là những lý do khiến chú tôi đồng ý ngay để người hàng xóm giao bức tranh cho ông càng sớm càng tốt. Được thế, theo chú tôi đây là bức tanh quí giá nhất so với vô số tranh cổ đang có trong nhà chú tôi.

Tiền trao cháo múc, người hàng xóm nhận tiền, chú tôi đem tranh về. Cả đêm đó ông trằn trọc mãi, ông nghĩ thầm nếu giá 400 lượng ông cũng mua chứ đừng nói chi 200. Danh lam gặp khách hữu tình, bức tranh quý như thế mà thưởng thức một mình thì quả vô vị. Nhân cơ hội nầy, chú tôi làm một bữa nhậu, ông mời những người cùng sở thích về nhà uống rượu, ngồi xem bức tranh thần diệu đó. Chú tôi đánh cá những người bạn thử xem ai biết được sự thần diệu của bức tranh. Mọi người đều hớn hở, cố mở to mắt tìm xem cái độc đáo của nó, ai cũng nghĩ là mình sẽ tìm thấy cái giá trị mà chú tôi chưa tiết lộ vì họ đều là tay sành về tranh cổ. Chiếc đồng hồ quả lắc treo cạnh bàn thờ đổ mấy lần, bình rượu rót thêm bao lần cũng đã vơi. Mọi người đều uể oải nhưng bức tranh vẫn kênh kiệu không chịu thố lộ nét gì kỳ bí. Nó chễm chệ chiếm một vị trí quan trọng nhất trong phòng khách nhà chú tôi mà vẫn im lìm phong kín bí mật. Ngọn đèn tọa để trên bàn như ráng sức tỏa ra ánh sáng nhiều hơn để giúp những cặp mắt trọng tuổi, nhưng xem chừng những đôi mắt ấy vẫn chưa tìm được điểm gì đặc biệt. Đâu đó tiếng gà đã gáy, nỗi thất vọng toát ra trên từng gương mặt vốn đã khắc khổ nay trông càng thêm chảy dài. Có người đưa tay cầm tách trà nguội đổ vào miệng nuốt ực rồi từ giã, mấy người khác cũng đứng dậy theo, chào tạm biệt chú tôi, cũng có người hẹn đêm mai thế nào cũng tìm ra manh mối. Nhưng đêm mai và nhiều đêm mai nữa, không ai tìm thấy chút gì khác biệt trên bức tranh cổ đó. Và không cần tinh mắt lắm ai cũng thấy gương mặt chú tôi bắt đầu toát ra nỗi bàng hoàng.

Những người bạn của chú tôi đều chịu thua, có người tự trọng xác nhận mình già nên không còn tinh nhuệ như xưa, cũng có người ra vẻ phong độ nhưng lại đổ thừa cho những ngày cuối năm tâm trí bận rộn việc tết nhứt. Tuy vậy ai cũngï mong được chú tôi mách nước cho cái thần bí mà họ đoan chắc rằng ông đã khám phá. Miệng chú tôi đắng chát, ông hớp ngụm rượu đã bay hết hương vị rồi kể:

“Nghe người hàng xóm mới dọn tới có một bức tranh ảnh cổ, tôi đến xem chơi cho biết. Theo lời yêu cầu của tôi, người ấy lấy bức tranh treo lên vách đất và bảo rằng đó là bức tranh của ông nội để lại. Theo ông ta kể thì cả ông nội và cha ông ấy đều căn dặn rằng dù cho hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng đừng bao giờ bán bức tranh ấy, riêng ông ta thì không biết nó quý ở chỗ nào. Thực tình lúc đầu tôi cũng không thấy cái gì đặc biệt, nhưng vì óc tò mò và sở thích tranh cổ đã khiến tôi ghé qua nhà người hàng xóm thường xuyên hơn. Tôi để ý bức tranh nhiều ngày mới hay là mặt trăng phía sau cây tùng lớn dần theo những ngày trước rằm và non dần theo những ngày sau rằm mỗi tháng. Đó là lý do khiến tôi nài nỉ ông ta để mua lại bức tranh dù ông ta không hề có ý bán nó, nhưng từ khi đem về cho đến nay như mấy anh đã thấy, mặt trăng núp sau cây tùng trong bức tranh không có gì thay đổi cả. Chắc tôi phải ghé lại ông hàng xóm hỏi cho ra lẽ.

Vừa qua khỏi tết chú tôi trở lại nhà người hàng xóm. Ông định bụng sẽ hỏi thăm thêm về gốc gác bức tranh. Sau bao lần chú tôi gọi cửa không có tiếng trả lời, thấy cánh cửa chỉ khép hờ chú tôi đẩy nhẹ bước vào nhà. Trên chiếc chõng tre không trải chiếu, một đống tranh vẽ chừng ba mươi tấm giống y như bức tranh chú tôi đã mua, chỉ khác nhau hình dáng mặt trăng núp sau cây tùng. Không đầy một tuần sau, chú tôi ngã bệnh qua đời, khi tẩn liệm người ta còn thấy bên khóe miệng chú tôi còn rỉ ra một vệt máu. Biết đâu chú tôi đã để lại tất cả, nhưng sẽ mang theo hình ảnh người hàng xóm thất học và bức tranh cổ xuống đáy âm ti.

Thuỷ Lâm Synh