Giá Trị Của Việt Nam Cộng Hòa
Nhân
chuyện Trần Long Ẩn phát biểu: “…Văn học, nghệ thuật độc hại của nó xuyên tạc
đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ở miền Nam và hiện nay không thể tẩy
xóa”, mời đọc GIÁ TRỊ CỦA VNCH một thời bảo bọc ông ta và nếu không có những
giá trị đó thì mồ ông đã xanh cỏ từ lâu rồi.
Thật vậy,
hãy hỏi các “lãnh tụ sinh viên”, các chuyên viên biểu tình gây rối trong thành
phố còn sống, ai đã bảo vệ, che chở cho họ dù biết họ hoạt động dưới sự chỉ đạo
của Thành ủy Sài
Gòn Gia Định? Câu trả lời mà một người có nhận thức chính trị căn bản nào cũng
biết, đó là Hiến pháp VNCH. Họ còn sống sót đến hôm nay cũng nhờ hiến pháp đó.
Đảng Cộng
sản Việt Nam trấn áp 44 năm liên tục, các ông bà thử ném một trái bom xăng vào
trụ sở Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản xem sao?
Từ 1954 tại miền Bắc và sau 1975 trên phạm vi cả nước, bộ máy tuyên truyền
của đảng CS đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một
VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian
này. VNCH là hiện thân của mọi thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ
Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà
thơ thì VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc
Mỹ”.
Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas hơn mười năm trước
người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một
phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Có.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có.
Miền Nam trước 1975 có lệ thuộc vào viện trợ Mỹ không? Có.
Nhưng các đặc điểm đó có đại diện cho Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không?
Không.
Cho đến nay, một số người hoặc vì không có cơ hội nghiên cứu sinh hoạt chính
trị tại miền Nam, không phân biệt được sự khác nhau giữa chính quyền và chế độ
chính trị hoặc vì nghe riết những lời tuyên truyền của đảng đến độ nhập tâm, đã
đồng hoá chính quyền của các ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao
Kỳ, Dương Văn Minh với VNCH.
Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả,
giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ
mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì
dân.
Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu
ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ
độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát
xuất từ:
“Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và
chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự
cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể
cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất
lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ
hiện tại và mai sau.”
Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117
điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo
đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động
của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự
xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi ông Lý Quý Chung, trong Hồi ký không tên,
xuất bản tại Sài Gòn trước ngày ông qua đời, dù chê bai các chính quyền miền
Nam tàn tệ, cũng không thể nói xấu bộ luật tối thượng của chế độ cộng hoà như
một diễn đàn để ông ta thực thi dân chủ: “Quốc hội lập hiến kéo dài một năm đã
cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính trị tại nghị trường và
từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua mạng lưới báo chí Sài
Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với các vấn đề dân chủ,
chiến tranh, hoà bình v.v…”
Về căn bản, không có nhiều khác biệt giữa Hiến pháp VNCH 1967 và Hiến pháp
Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần cuối vào năm 1987. Cả hai hiến pháp đều dựa trên
chế độ cộng hoà, phân quyền rõ rệt, thích hợp với đà tiến hoá của văn minh nhân
loại.
Dân chủ không phải là món quà của ông thần tài đem đặt ngay trước cửa nhà
mà là chiếc máy lọc từ nước đục sang nước trong, từ phong kiến lạc hậu đến văn
minh tiên tiến, và trong quá trình đó hai quốc gia VNCH và Nam Hàn, đều phải
trải qua những kinh nghiệm máu xương trên con đường dân chủ hoá đất nước. Giống
như người dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt Nam cũng vừa học dân chủ và vừa
tập sống dân chủ với tất cả những khó khăn thử thách.
Điểm khác nhau chính giữa Nam Hàn và Nam Việt Nam là cơ hội.
Nam Hàn có cơ hội để biến những ước mơ của dân tộc Triều Tiên gói ghém
trong hiến pháp của họ để ngày nay là nước giàu mạnh nhất nhì châu Á. Miền Nam
Việt Nam thì không. Chế độ cộng hoà tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên
trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã
trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân
thể của chế độ cộng hoà hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến
gục xuống trong tức tưởi.
Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ cũng phải bước qua con đường
đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.
VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính
trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng
hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch,
có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập
chân chính.
Nếu trước 1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai bên của cuộc chiến và bất mãn
trước xã hội nhiễu nhương, việc kết án chính quyền là “trấn áp” có thể còn
thông cảm được, thế nhưng sau 42 năm sống dưới chế độ độc tài đảng trị vẫn có
kẻ biện minh cho hành động đốt xe, bắt cóc, ném bom xăng vào thương xá, ném lựu
đạn vào nhà hàng ăn uống trước đây thì quả thật là vô cảm.
Đặc điểm thứ ba đảng tuyên truyền là miền Nam chỉ biết “ôm chân Mỹ”.
Thật mệt mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự lệ thuộc vào Mỹ của chính quyền
miền Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng của đảng CSVN và cũng chẳng
sướng ích gì khi phải đọc lại bảng kê khai vũ khí, quân trang, quân dụng mà hai
đế quốc cộng sản đổ xuống Việt Nam.
Cho dù sự lệ thuộc vào cường quốc là điều không tránh khỏi trong thế giới
phân cực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua thì chọn lựa cường quốc nào sẽ
mang lại nhiều lợi ích cho đất nước hơn?
Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu hết các nước chọn lựa hay do
điều kiện chính trị thế giới đẩy đưa, đã đứng về phía tự do dân chủ như Nhật
Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ v.v. đều trở nên các quốc
gia ổn định và phát triển nhờ chính sách đối ngoại thân Mỹ một cách khôn khéo,
trong lúc các nước theo chân Liên Xô, Trung Cộng như Bắc Việt, Cu Ba, Bắc Hàn
thì kết quả ra sao không cần phải phân tích.
Không ai từng chống Mỹ quyết liệt hơn cố tổng thống Anwar Sadat nhưng để
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông đã bỏ đồng minh Liên Xô để
bước sang phía thế giới tự do cho dù ông biết trước sự chọn lựa đó có thể trả
giá bằng nhiều rủi ro như ông tiên đoán trong diễn văn đọc trước Quốc hội
Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967.
Một số người có thể cho rằng Hiến pháp VNCH cũng do người Mỹ nhúng tay vào.
Dù điều đó đúng thì đã sao. Hiến pháp của quốc gia Nhật Bản hiện đại cũng do
bàn tay của Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng những không bị oán ghét mà
còn được nhân dân Nhật xem như là một trong những người có công lớn trong việc
xây dựng nước Nhật hiện đại.
Dân chủ là một kỳ quan được nhân loại bồi đắp qua nhiều thời đại chứ không
phải là tài sản riêng của quốc gia nào.
Học hỏi cái hay cái đẹp của các nước tiên tiến để áp dụng vào cuộc cách
mạng dân tộc và phát triển đất nước như cụ Phan Chu Trinh từng thống thiết kêu gào
gần trăm năm trước, luôn luôn là điều đáng khuyến khích.
Phân tích để thấy, chế độ cộng hoà tuy không còn hiện diện tại miền Nam
nhưng các giá trị dân tộc, nhân bản và khai phóng thể hiện trong Hiến pháp VNCH
vẫn còn đó. Gia tài quý giá đó chẳng những không rã mục theo chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu, Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt ra khỏi biên giới Bắc Nam để trở
thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Nếu ai cho người viết cường điệu hãy tạm gác qua bên các định kiến Bắc Nam,
khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận
riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hoà trên trang đầu của Hiến
pháp mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung của Hiến pháp VNCH 1967 thôi,
người đọc sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt
đến.
Việc lặp lại những lời tuyên truyền cũ mèm của đảng cho rằng chế độ cộng
hoà tại miền Nam là “sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo ra trong Chiến tranh Lạnh”
chẳng khác gì chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con trai.
Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần
thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống dân chủ khơi mầm
tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi mà đã có từ
hàng trăm năm trước.
Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền
Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận
các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng
hoà sau này.
Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được
đổi bằng mồ hôi nước mắt của nhiều người. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc
Nam, gạt bỏ lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết
cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau.
Tiếc thay, viên ngọc và viên sỏi khác nhau khi nằm trong tay người thợ bạc
nhưng lại giống nhau khi nằm trong tay mấy cậu bé bắn chim.
Do đó, phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam.
Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết
theo một chính quyền.
Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã
vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.
Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ
sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy.
Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán,
đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và
dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh
ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt
Nam vẫn tồn tại và lớn lên.
Đối mặt với một kẻ thù Trung Cộng đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa
bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người
Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay.
Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong
thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt
Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền
đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục
một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư
tưởng khó khăn.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất
nước sau 42 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc
phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra
Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ
do nhân dân họ bầu lên.
Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết
tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những
lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn
lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người cầm quyền được
đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước.
Sau mỗi cơn giận hờn, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống,
lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn
giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng
biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính
biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.
Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những
yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là
những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh
đạo đảng CSVN.
Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng
Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát.
Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên
truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác
của ý thức hệ CS.
Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc
gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng.
Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ
hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một
nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc
chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên
thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian
nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính
nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Trần Trung Đạo
304Đen – llttm- OVV