Mấy lần thất thủ kinh đô
Tặng những người Huế xa xứ 30 năm (1975-2005)
Tròn hai hoa
giáp xoay vòng, (Ất Dậu 1885 -Ất Dậu 2005) 120 năm chẳn. Một trăm hai mươi năm
không phải chỉ một lần mất Huế. Mỗi lần như thế, đều lưu lại một dấu in
văn hóa riêng, làm cho Huế không lẫn với “ai” khác được.
Cách nay 120
năm, nửa đêm 22 tháng Năm năm Ất Dậu quan tướng Tôn Thất Thuyết ra lệnh nổ
súng vào Tòa Khâm Sứ Pháp ở bên kia bờ sông Hương, và đồn Mang Cá ở phía đông
bắc Kinh thành, nghĩ rằng sẽ mở đầu một trận phục thù, đánh cho quân Pháp
manh giáp không còn, giành lại quyền tự chủ. Ai hay lực bất tòng tâm, sáng
ngày 23 (5/7/1885), quân Pháp phản công dữ dội, kinh đô thất thủ, quân chết như
rạ [1], dân chết như củi, triều đình tứ tán, vua Hàm Nghi ở ngôi chưa ấm chỗ đã
phải xuất bôn, ba năm rày đây mai đó trong vùng rừng núi Quảng Bình-Hà Tĩnh,
cầm đầu cuộc kháng chiến Cần Vương không kết quả.
Những gì sử
sách ghi chép không gây xúc động trong lòng tôi cho bằng đọc Hạnh Thục
Ca của Nguyễn Nhược Thị [2] và nghe mụ Mì nói vè Thất thủ
Kinh đô, dù đó chỉ là kinh đô ngọai sử, nhưng tình cảm thì xoáy vào lòng
người. Mụ Mì, người đàn bà mù, sống cô đơn trong túp lều tranh sau lưng lầu ông
Hoàng Tùng Đệ [3], ngày ngày chân đất áo dài vá chằm vá đụp, lang thang khắp
chốn kinh thành, nói vè Thất thủ Kinh đô, vè Cô Thông Tằm …
để kiếm vài xu sống qua ngày. Mệ ngoại tôi và mạ tôi thuộc lòng nhiều
đoạn của bài vè, vậy mà mỗi lần nghe mụ Mì gõ cặp sanh cầm nhịp và cất
tiếng khàn khàn kể chuyện kinh đô khói lửa, vẫn không cầm được nước mắt. Biến
cố đó đau thương quá, người ta không phải chỉ chết vì tên bay đạn lạc, mà
còn chết vì chen nhau chạy loạn, xéo lên nhau lấy đường mà chạy, đạp lên
nhau mà chết. Ông già bà cả kể chuyện rằng có người ôm trắp của mà chạy,
bị xô đẩy, trắp của rơi xuống, tiếc của đứt ruột, vừa cúi xuống lượm thì bị
sóng người ở sau phủ tới, và chết với của. cúng 23 thg
năm
Từ đó cứ mỗi
tháng Năm (âm lịch), từ mồng mười trở đi, hầu như ngày nào đi đâu trong thành
phố cũng có thể ngửi thấy hương thơm của nhang trầm và mùi khen khét
của vàng mã đốt cháy phảng phất trong gió. Cả thành phố cùng giỗ 23 tháng
Năm. Triều đình có giỗ của triều đình [4], địa phương có lễ cúng của địa
phương. Nhiều địa phương hình thành những tập thể gọi là Phổ Hăm ba
tháng Năm, hàng năm đóng góp tiền bạc để tổ chức lễ cúng cô hồn một cách trọng
thể.
Mạ tôi tuy đã có
chân trong Phổ Hăm ba tháng Năm của xóm, nhưng, cũng như nhiều gia đình khác
trong xóm trong phường, đến ngày 23 vẫn bày bàn trước ngõ, bên lề đường để cúng
cô hồn; lễ vật đơn sơ nhưng cần thiết với người chạy lọan: cháo loãng
(cháo thánh) để húp nhanh cho đỡ đói, gạo muối để làm lương thực đi đường, và
ghè nước chè xanh, kèm theo cái gáo dừa với mấy cái tô sành cho bà con đỡ
khát. Hương thắp suốt ngày, đến tối mịt mới đốt vàng mã, gồm rất nhiều áo
binh, giấy tiền và giấy vàng bạc. Người ta không phải chỉ cúng giỗ trong một
ngày hăm ba tháng Năm; người ta cúng lai rai từ mồng mười trở đi cho đến
hết tháng. Không đâu trên đất nước lại có lễ giỗ tập thể lạ lùng như thế
như ở Huế.
Một người
bạn Huế lập nghiệp ở Sàigòn, khi gặp lại tôi sau biến cố Tết Mậu Thân, 1968, đã
hỏi tôi rằng, “Anh đã nghe bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy của
Trầm Tử Thiêng chưa? Anh biết không, khi nghe tin cầu Trường Tiền bị giật sập,
tôi buồn ngơ ngẩn như mất một cái chi rất gắn bó với mình. Đến khi nghe
bài hát của Trầm Tử Thiêng, tôi không khóc mà ứa nước mắt. Nó đâu phải chỉ là
một cây cầu, nó là Huế của mình.”
Ôi chao! Một người
đàn ông Huế chảy nước mắt cho Huế khi xa xứ mà ngó về quê hương điêu linh, vậy
thì có lạ chi mạ tôi và mệ ngọai tôi khóc cho kinh đô thất thủ, dù chỉ nghe kể
lại bằng lời vè mộc mạc. Trước đó 22 năm (1946) cầu Trường Tiền
cũng đã bị hy sinh một cách vô lối cùng với một số cung điện trong hoàng
thành vào một đêm lạnh tháng Chạp tây, trong chủ trương tiêu thổ kháng
chiến. Nhưng chiếc cầu gãy lần đó hầu như không để lại một ấn tượng u ám
nào trong lòng người cố đô. Nó khác với lần gãy gục thứ hai, về mặt
tác động tâm lý.
Chuyện thất thủ
kinh đô lần thứ nhất chỉ xảy ra trong một ngày. Chuyện tang tóc đổ nát trên Huế
83 năm sau đó kéo dài cả tháng trời trong cảnh u ám của trời đất với mưa phùn
lạnh lẽo, đêm cũng như ngày. Thời Tây chiếm kinh đô, thảm cảnh chỉ diễn ra
trong Thành Nội với mấy cửa thành phía đông, phía tây và phía bắc vì nghẽn dân
chạy loạn; vùng phụ cận Huế vẫn yên tĩnh. Lính và dân chết nhiều vì tên
bay đạn lạc, vì đạp lên nhau mà chạy, nhưng chỉ có hoảng sợ mà chưa thấy bóng hận
thù. Mậu Thân thì khác. Ngoài 10 phường trong Thành Nội, thì Tả Ngạn, Hữu
Ngạn sông Hương cũng cùng chung số phận. Nếu đem chuyện thất thủ đời
xưa ra sánh với chuyện thất thủ thời nay thì thiệt hại tài sản và sinh mạng
phải nhân lên mấy chục lần. Hơn năm ngàn sinh mạng đã ra đi trong oan khiên và
tức tưởi bằng tiếng cắc bụp giữa đêm khuya, bằng đầu cuốc, sống rựa đập xuống
trên đầu trên trốt, không kịp kêu cha kêu mạ, ới vợ, ới con.
Từ sau vụ phát
giác những mồ chôn tập thể trong khu vực phía sau trường Trung học Gia Hội
và chùa Áo Vàng, cả thành phố như lâm vào cảnh hậu địa chấn với những toán
người trang bị cuốc thuổng lang thang núi này, bãi kia, đồng nọ để đào bới
tìm kiếm thân nhân. Như Nguyễn Nhược Thị xưa kia, Nhã Ca đã viết Giải
khăn sô cho Huế cho cả thiên hạ và con cháu mai sau cùng hay, nhưng
vẫn chưa nói hết niềm đau và nỗi mất mát, kinh hoàng, của lần thất thủ
kinh đô thứ hai nầy. Xem ra, vết thương do Tây làm ra không độc cho bằng
người cùng dòng máu. Già trăm năm trước, Nguyễn Du đã viết câu Đống
xương vô định đã cao bằng đầu để bình luận về sự nghiệp của Từ
Hải. Tưởng rằng đó chỉ là chuyện thơ phú văn chương, mãi đến khi bước chân
vào trường tiểu học Bảng Lãng để xem thành tích Khe Đá Mài mới
thấy đống xương vô định đã cao bằng đầu là cái chi rất thực, rất cụ
thể, khỏi phải tưởng tượng xa gần chi cả. Thiệt thấy mà rùng mình [6].
Ngày
xưa, thất thủ cũng có chết chóc và đổ nát, nhưng lòng người dân vẫn gắn bó
cố đô, chưa ai đành lòng bỏ đi. Sau Mậu Thân thì tinh thần và tình cảm
bắt đầu lung lay. Khi trật tự vãn hồi, tôi nhận ra bạn bè, bà con có
người rời Huế từ bao giờ không hay. Họ bỏ Huế đi luôn, để định cư một nơi
khác an toàn hơn, mà mình cứ tưởng như họ đi chơi, đi mua hàng, đi thăm bà
con ở Sàigòn, như họ vẫn thường đi. Họ sợ chi? Mỗi người mỗi
hòan cảnh, khó mà trả lời một cách chính xác, nhưng họ giống nhau ở một điểm là
sợ cái màn ngày đi trình diện, tưởng chỉ vài tiếng đồng hồ “làm việc” rồi về,
ai ngờ thiên thu vĩnh biệt, không biết nơi mô mà chạp mã; họ sợ những
vụ xử không phiên tòa, của người anh em, vốn ưa khử lầm hơn bỏ sót.
Yên yên đâu
chừng được bốn năm thì tới ngày phượng nở ve kêu 1972, có tên thường gọi
là Mùa hè đỏ lửa. Cổ thành Quảng Trị thất thủ. Làn sóng đồng bào
Quảng Trị sau khi quét qua Đại lộ Kinh hoàng đã biến thành đợt sóng thần, cuốn
dân Huế vô Đà Nẵng ào ạt hối hả, sợ rằng chậm chân thì chết. Trong khi
dòng người ngày đêm bương bả vượt đèo Hải Vân bằng mọi phương tiện, kể cả
xe cày và xe bò, đi bộ, và xe ba gác, thì tôi và anh bạn mỗi người một
chiếc Honda, từ Đà Nẵng ngược đường ra Huế để cõng ông già vào, bởi ông
không chịu đi theo gia đình người bạn mà tôi đã tin cậy gởi gắm, mà nhất định
chờ cho được thằng con trai đích thân đem xe ra rước. Ông cụ có biết
đâu rằng lúc đó có xe hơi mười bánh cũng không đi Huế được, vì sóng kinh hoàng
đã ngập đường rồi; chỉ có xe gắn máy mới lạng lách được thôi! Hôm
trước cháy chợ Đông Ba. Có người nói, cháy chợ thì chớ chạy, nhưng có
người cãi lại, tầm bậy, chợ cháy thì chạy chớ (chứ’), nên người ta cứ mạnh
ai nấy chạy, chạy không ngoái đầu ngó lui. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được cái
không khí của một thành phố chết là chuyến về Huế bằng xe Honda lần đó.
Đường sá vắng tanh, phố xá, nhà cửa, hàng quán, đều cửa đóng im ỉm. Mình
đi trong thành phố quê hương mà e dè, rờn rợn như đi giữa miền đất lạ.
Nhưng tiền hung mà hậu cát, rồi sóng gió qua đi, dân Huế lại lục tục vượt đèo
Hải Vân trở về. Tuy chỉ là một lần suýt nữa thì thất thủ, nhưng dân Huế
lại mỏn đi, bởi những điều mắt thấy hoặc tai nghe về Đại lộ Kinh
hoàng rùng rợn quá, họ không muốn rơi vào cái bẫy sập đó như đồng bào
Quảng Trị đã mắc, thôi thì cao chạy xa bay càng sớm càng tốt. Nhưng có đi
xa lắm thì người Huế bỏ xứ lúc đó cũng chỉ tới Sàigòn. Không một ai, kể
cả người có tiền, nghĩ rằng họ có thể đi xa hơn . . .
Tết Ất Mão, 1975,
nhằm ngày 11 tháng 2 năm 1975. Ăn Tết được hơn một tháng thì đã nghe “động
chiến phong”. Đến giữa tháng Ba thì Huế cùng người anh em Quảng Trị
tái diễn cảnh di tản của mùa hè đỏ lửa 72, ban đầu còn ở mức độ thấp,
rồi bỗng lên cơn hối hả khi có tin đồn ngày 23 tháng 3 đường đèo sẽ bị cắt. Huế
chính thức thất thủ ngày 26 tháng 3, nhưng thực ra Huế đã mất trong bỏ ngõ
khi quân đội rút về Thuận An. Nỗi mừng đại gia đình đoàn tụ toàn vẹn ở Đà
Nẵng chưa kịp lên men thì ba ngày sau Đà Nẵng cũng buông tay cho sấu nuốt.
Trong khi vợ bụng
mang dạ chửa, một nách ba đứa con dại với vạn nỗi âu lo, thì tôi cùng hàng vạn
người khác lên núi học làm người tốt.
Ngày đi, tre chửa
mọc măng,
Ngày về măng đã mấy
lần thành tre.
Phải
hơn một năm sau khi trở về trần tôi mới được phép về thăm lại Huế xưa,
nhìn lại ngôi nhà thời thơ ấu, dẫy mớ cỏ mọc hỗn trên nấm mộ ông bà
già. Hai người em gái thấy lại ông anh khác xưa nhiều quá, òa lên
khóc. Tôi cười, “Khóc chi mà khóc, qua bao sóng gió mà còn được thấy
mặt anh em như ri là quí rồi”. Tôi thấy ngôi nhà cũ kỹ điêu tàn hơn,
mấy gốc cây quen thuộc trở thành lạ lẫm, bởi chúng không còn trẻ trung như ngày
tôi thấy lần cuối, chúng trở thành trung niên hay bô lão mất rồi, nhất là cái
gốc hồng trứng mà tôi đã bỏ nhiều công chăm sóc.
Ở một nơi
vốn ra đường không gặp học trò thì cũng gặp bà con hay bạn bè, người quen
biết, vậy mà trong ba ngày liền, ra đường chẳng thấy ai là cố nhân; mãi
cho đến ngày thứ năm mới tình cờ gặp lại chàng họ Trương, giáo sư
Sử Địa, ở dốc cầu Bến Ngự. Hai đứa bở ngỡ nhìn nhau. Câu chào sau mấy
năm không chộ mặt là “mình mất dạy mấy năm ni rồi.” Thầy giáo mà “mất
dạy” thì đường cùng rồi, vì đất trời đâu còn chỗ để thối vi sư!
Tìm tới nhà thăm người bạn cũ, hai đứa đã từng đóng vai rể phụ cho nhau năm
xưa, thì gặp một ông lão tóc trắng như cước ra chào vồn vã. Cũng may lão
không để râu nên tôi mới nhận ra đó là bạn mình. Ngắm cái đầu bạc của
bạn, không khỏi gật gù mỉm cười, “Ta ở trong bạc đầu còn có lý, ngươi ở ngoài
mà cũng đầu bạc là răng?”
Bạn bè, người quen
như lá mùa thu. Sau lần thất thủ kinh đô thứ ba này, người ta đành đọan bỏ
Huế mà đi, thí thân liều mạng mà đi, cầm bằng tù tội và sóng gió đại dương là
canh bạc đen đủi của cuộc đời mà thôi. Cái điều trước đó không hề có ai
nghĩ tới là liệu có đi đến nơi nào xa hơn Sàigòn hay không, thì nay họ quyết đi
xa hơn cả hải trình Kha Luân Bố đi tìm tân thế giới, họ cả gan vượt Thái Bình
Dương, chứ Đại Tây Dương thì sá chi!
Bước qua năm
1990, lại một đợt ra đi khác của Huế, dân HO. Từ HO-1 đến HO-7 còn thấy
lai rai năm bảy gia đình, qua HO-8 và HO-9 thì phải gọi là HO-Huế. Trong
mỗi đợt vô ra Sàigòn lập thủ tục, nào phỏng vấn, nào chích ngừa, bầu đoàn thê
tử của họ chiếm trọn một hai toa tàu xuyên Việt, là thường. Đây là những
chuyến đi có kèn có trống, nghĩa là có chén rượu giã từ hay đưa tiễn, chứ không
phải chun bụi lũi bờ như mấy năm trước, thiệt là hết rồi cơn bỉ cực, thiệt
là có ông trời ngó lại.
Mới đó mà đã ba
mươi năm xa Huế. Ngày xưa, nàng Kiều xa nhà, xa người yêu chỉ có mười lăm
năm mà còn được Tiên Điền tiền bối hạ cho một câu rằng Mười lăm năm ấy
biết bao nhiêu tình, huống chi ta xa những ba mươi năm, phải không, hỡi
những người Huế ra đi từ độ 75 xa xôi đó? Những chú bé oa oa năm ấy, nay
đã ở cái tuổi tam thập nhi lập, đang vững vàng bước đi trên quê hương mới, lòng
không vướng một chút mây mờ của quá khứ thất thủ kinh đô, dù xa hay gần.
Những cô bé cùng tuổi thì nay hẳn đã tay bồng tay dắt mà sức đua tranh có kém
chi trai. Rất nhiều, rất nhiều cuộc đời cũ được tái tạo khởi sắc, rất
nhiều rất nhiều cuộc đời mới đang hăm hở tiến về phía trước. Tất cả gíống
nhau ở chỗ sợi dây rốn chưa cắt, vẫn còn nhớ Huế.
VHA tháng 3.2005
[1] Trong trận đánh này
quân Pháp chỉ chết 18 người, bị thương 80, còn quân Việt thì chết lên số ngàn (
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược , Q.2, Paris, 1987, tr. 324), chưa kể
thường dân.
[2] Bà tên thật là Nguyễn Thị Bích (1830-1909), con quan Bố Chánh Nguyễn
Nhược San, có văn tài, học thức, nên được tuyển vào cung từ đầu đời Tự
Đức. Đến đời Thành Thái được phong làm Tam giai Lễ Tân. Người ta xem bà
như là thư ký riêng của Hòang Thái hậu Từ Dũ. Hạnh Thục Ca là hồi ký về
biến cố thất thủ kinh đô mà bà là nhân chứng.
[3] Hòang thân Vĩnh Cẩn, em họ vua Bảo Đại.
[4] Năm 1894, đời Thành Thái, môt đàn Âm hồn được lập ở khu Lý Thiện gần
cửa Quảng Đức (khu Cầu Đất ngày nay) để tế tướng sĩ và dân chúng chết trong
ngày thất thủ Kinh đô. Một quan Võ cao cấp đứng chủ tế, với lễ tam sanh
(heo, bò, dê) xôi chè, hương ,đèn, trà, cau, trầu , rựu, vàng mã.
[5] Tên một nhạc phẩm của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng.
[6] Trong khi rút lui, VC đã dẫn theo hàng trăm người bị bắt trong khu
Phủ Cam-Từ Đàm lên núi, tất cả đều bị trói bằng dây điện thọai. Đến khu
vực khe Đá Mài, tất cả đều bị hạ sát bằng súng máy, xác vất xuống khe. Vụ
này được phát hiện năm 1969, thời Đại tá Lê Văn Thân làm Tỉnh trưởng..
Võ Hương An-2005
304Đen –
llttm -Mt68