Monday, September 30, 2024

Ảo Tưởng Khúc - Thuyên Huy

 Ảo Tưởng Khúc




Vết Thương Cuối Cùng - Nguyễn Thị Hoàng

VẾT THƯƠNG CUỐI CÙNG




 










một đêm kia trái tim tôi ngừng đập
máu thôi hồng và tóc sẽ thôi đen
sẽ khô cạn hết đôi hồ nước mắt
thôi còn ai âu yếm gọi tên em

đừng xua đuổi tôi đã nguyền trốn tránh
chân thôi đi và miệng sẽ thôi cười
thôi cô độc bởi không còn kiêu hãnh
nỗi ê chề đau đớn của riêng tôi

ở trên đó sao sương mờ mịt lắm
hồn tôi bay quanh quĩ đạo mặt trời
xin vũ trụ chút hương nồng lửa ấm
kẻo khi xưa quen lạnh lẽo trên đời

người ta sẽ cười vui và tiếp tục
trong thiên đường và địa ngục trần gian
đôi mắt ấy chưa một lần biết khóc
bởi đôi tay chưa hứng lấy điêu tàn

em từ giã và mang theo hờn tủi
suốt một đời như bóng núi chơ vơ
anh dù đến dù đi, em mòn mỏi
suốt một đời hấp hối nỗi bơ vơ

em sẽ nói với vì sao thứ nhất
gọi giùm tên một kẻ dưới xa kia
viên ngọc quí đã tan tành nước mắt
bởi yêu người tôi chọn kiếp điên mê

Nguyễn Thị Hoàng
( Tập san VĂN )

  

Nguyễn Bính Nhà Thơ Bình Dân, Si Tình Và Lãng Mạn - Nguyễn Cao Cang

 

NGUYỄN BÍNH, NHÀ THƠ BÌNH DÂN SI TÌNH VÀ LÃNG MẠN




Nguyễn Cao Can

Ai đọc thơ của nhà thơ Nguyễn Bính mà không thấy cái độc đáo của hồn dân tộc đã ấp ủ trong thơ của ông, hay nói cách khác Nguyễn Bính đã đưa hồn dân tộc vào thi ca Việt nam hiện đại. Ông là người đã góp công rất lớn vào nền văn học Việt Nam, những câu thơ giản dị, bình dân đã làm cho người đọc, khi đọc lên chỉ một lần đã thấy lòng mình lâng lâng giao cảm, dễ đọc, dễ mến và nhất là dễ thuộc. Nhưng có ai ngờ được rằng Nguyễn Bính lại có một cuộc sống lãng mạn và giang hồ giống như thơ của ông.

Nguyễn Bính thi sĩ lãng mạn và giang hồ.

Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, Bút hiệu của ông là Nguyễn Bính, sinh năm 1918 tại xóm Trạm, thôn Thiên Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản thuộc tỉnh Nam Định. Ông mồ côi mẹ lúc mới lên ba, do đó bố ông có một bà kế mẫu, nhưng nhà vẫn nghèo nên ông được bên ngoại đưa về nuôi nấng dạy dỗ tại thôn Vân Tập cũng cùng xã Đồng Đội.

Cậu ruột Nguyễn Bính là ông Bùi Trình Khiêm lãnh trách nhiệm nuôi nấng ông. Được biết ông Bùi Trình Khiêm là một nhà nho có tiếng trong vùng thời đó đã tham gia vào phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông Khiêm cũng là thầy giáo dậy ông Trần Huy Liệu. Nhờ người cậu giỏi hán văn mà Nguyễn Bính có môi trường tiếp xúc sớm với chữ nghĩa, thi phú và nghệ thuật.

Khi Nguyễn Bính được mười ba tuổi đã làm kinh ngạc về tài thi phú của mình nhân vào dịp lễ hội Phủ Giầy (Nam Định) thường tổ chức vào tháng Ba Âm Lịch hằng năm, trong lễ hội năm này có tổ chức cuộc thi thơ. Năm đó ban tổ chức chọn đề thi là ” Hãy tả cảnh chọi gà trong ngày lễ hội”. Đề tài vừa ra, ông lấy bút giấy viết liền, chỉ chưa đầy nửa thời gian của ban tổ chức ấn định Ban Giám Khảo đã thấy Nguyễn Bính đã lên nộp bài thi. Mọi người đều ngạc nhiên nhất là những vị trong Ban Giám Khảo. Bài nộp của Nguyễn Bính dài hơn ba trang giấy , kể ra như vậy là ông đã viết khá dài. Sau khi Ban Giám Khảo xem xét và cân nhắc, đã quyết định trao giải thưởng hạng nhất cho bài thơ của nhà thơ Nguyễn Bính.

Liền ngay đó Ban Giám Khảo đã dùng loa phóng thanh đọc bài thơ được giải nhất ở giữa sân đình cho mọi người nghe. Nghe xong, tức thì hàng ngàn người đang tham dự lễ hội có mặt, đều nhất loạt vỗ tay hân hoan chúc mừng nhà thơ thiên tài Nguyễn Bính, có những cặp thanh niên còn cao hứng công kêng Nguyễn Bính lên vai, làm chàng trai Nguyễn Bính vừa mới lớn được nhìn từ trên cao hơn người xuống nhìn ngắm những cô gái đang đi dự lễ hội một cách hãnh diện và thoải mái, trái lại những cô gái xuân xanh mơn mởn đang ước tấm chồng nhìn lên anh thi sĩ đầy cao ngạo mà ước muốn được lấy chàng làm chồng . . .

Em như cô gái hãy còn xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến, xuân đi, hoa mận nở
Gái xuân giũ lụa trên sông Vân
Lòng xuân lơ đãng, má xuân hồng
Cô gái xuân mơ chuyện vợ chồng
Đôi tám xuân đi trên mái tóc
Đêm xuân cô ngủ có buồn không?

Bài thơ “Gái Xuân” trên mà Nguyễn Bính mô tả một nàng thôn nữ diễm kiều đang mơ mộng thật nhiều, cô đang mơ một tấm chồng, si tình một chàng trai nào đó có thể là thi nhân Nguyễn Bính chăng? Nên chàng hỏi “Đêm xuân cô ngủ có buồn không?”
Từ ngày chàng được đám đông vỗ tay tán thưởng sau cuộc thi ở Phủ Giầy năm ấy, Nguyễn Bính lại càng cao hứng để sáng tác những vần thơ trữ tình làm nhiều người say mê, các cô thiếu nữ thì mê mẩn si tình như trong bài Chờ Nhau dưới đây:

Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng chung một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
Ai làm cả gió đắt cau,
Mấy hôm sương muối cho trầu đổ non.

Trong câu ‘ em nghe họ nói mong manh, hình như họ biết chúng mình với nhau ‘ quả tình là thi vị và lãng mạn, không còn nề nếp gia phong cổ hủ trai gái thụ thụ bất thân như ông bà ta thường nói. Tuy thế nhưng với bài Cô Hàng Xóm mà Nguyễn Bính mô tả rằng nhà chàng ở cạnh nhà nàng mà vì lễ giáo nên còn hơi e ngại.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.
Cho nên chàng chỉ dám nhẹ nhàng nằm mơ thôi:
Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng…
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi…
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.

Cảnh mưa thì thật buồn, nhà thơ Nguyễn Bính mô tả như sau:

Tầm tầm giời cứ đổ mưa,
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
Cô đơn buồn lại thêm buồn,
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?

Chàng gửi hồn cho bướm trắng để chịu tang khi biết nàng đã thành người thiên cổ. Nguyễn Bính quả là một người si tình và lãng mạn, mặc dầu chàng chưa hề mặt mặt cầm tay nàng lấy một lần mà đã nghẹn ngào, đau sót và nói rằng mình đã yêu nàng. Thật đúng là chàng vừa si tình lại hết sức lãng mạn.

Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
Đêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc… Quả tôi yêu nàng.

Kết luận một điều làm người đọc ngỡ ngàng sau khi nàng chết, Nguyễn Bính còn mơ tưởng rằng nếu hồn trinh của Cô Hàng Xóm còn ở trần gian thì hãy nhập vào bướm trắng để qua với chàng thì sung sướng biết bao!.

Hồn trinh còn ở trần gian?
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!

Rồi, một câu chuyện thú vị và si tình khác của Nguyễn Bính nữa mà nhiều người còn nhắc tới: Số là năm ấy ông vừa tròn mười bốn tuổi Nguyễn Bính đi dự hội Phủ Giầy một lễ hội mà ông rất mê từ thuở nhỏ. Hôm đó ông đang ngồi xem hát hầu đồng bóng, khi thoáng thấy một cô gái trạc tuổi ông đi ngang qua. Cô bé người cao ráo mặc áo cánh sen thắt lưng hoa lý trông rất xinh. Cô ấy đi cùng với một người đàn bà có lẽ là mẹ nàng. Vẻ đẹp sắc nước nghiêng thành, lạ lùng như nàng vừa thoát ra từ bức tranh Tố Nữ treo ở tường trong phòng khách của một vị quan mà ông đã đưọc xem khi đi thăm ông quan ấy với người cậu, vội vàng ông chạy theo cốt nhìn cho bằng được khuôn mặt cô nàng, rồi ông ngơ ngẩn như người mất hồn khi diện kiến. Cả ngày hôm ấy, ông cứ đi theo hai mẹ con nàng, ông theo cả vào chùa trong để lạy cùng lạy, khấn cùng khấn với hai mẹ con nàng đến nỗi ông quên cả thời gian mãi cho đến chiều.

Gió chiều cầu nguyện đâu đây,
Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu.
Sư già quét lá sau chùa,
Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông.

Si tình đến thế nên ít có người sánh kip. Ngoài việc lãng mạn si tình, Nguyễn Bính còn được dân gian coi như một vị thần dùng thơ để bói toán nên người cùng thời đặt cho ông danh hiệu là ‘chú bé thần đồng ‘, nhiều lời đồn đãi thêu dệt khiến nảy sinh ra nhiều chuyện bất ngờ. Lúc đầu người ta nhờ Nguyễn Bính gà thơ cho những cuộc thi có hát đối đáp vì ông có tài đối ứng tức thì, nên thường bên nào có ông giúp thì đều thắng cuộc thi, làm đối phương tức giận. Tuy nhiên cũng nhờ tài đó mà ông được dân chúng ngưỡng mộ, thời đó dân trí còn thấp kém nên đã có người tôn ông lên đến tột đỉnh vinh quang, có người ngờ rằng ông là người của “cõi trên” hiện xuống vì do sự sùng kính quá đáng mà thành mê tín, tin rằng thơ Nguyễn Bính là thơ Tiên, được giáng nhập vào cậu bé thần đồng chứ chẳng phải là thơ của người bình thường sáng tác. Thậm chí đến nỗi người muốn dựng vợ gả chồng cho con cái, hay những cặp trai gái gặp đường tình duyên trắc trở, hoặc làm ăn xui xẻo v.v. đều đến nhờ “Câu” cho thơ “Tiên”! “Cậu” tuỳ theo hoàn cảnh của thân chủ lại cho thơ “Tiên”.

Một lần kia, gia đình nông dân nghèo có một cô gái vừa tuổi cập kê, một thanh niên con nhà giầu ở làng kế bên đến hỏi xin cưới làm vợ. Nhưng phiền một nỗi nàng đã có một người yêu khác trong làng, người này tuy nghèo nhưng như cô nhưng cách ăn nết ở cũng khá. Gia đình cô gái phân vân không biết quyết định ra sao cho phải nên đã tìm đến “Cậu”. Cậu” liền lấy bút giấy viết ra “dòng thơ phán bảo” như sau:

“Của dẫu nhiều nhưng vẫn chẳng nên
Phù vân, giả dối chẳng lâu bền
Tình em đâu phải trao thiên hạ
Dành để trai làng mới đẹp duyên”

Thế là gia đình người thiếu nữ đành nghe lời thơ Tiên của Cậu gả cô cho trai làng, mà từ chối gả cho chàng thanh niên làng bên giầu có. Một chuyện thật độc đáo là có một anh chàng hành nghề đạo chích nghe nhà Thơ Nguyễn Bính có thơ Tiên linh hiển lắm nên cũng tìm đến xin thơ Tiên và được Nguyễn Bính “giáng” cho mấy câu thơ, đọc xong thơ Tiên thì anh đạo chích bỏ luôn nghề ăn trộm.

Trở lại nàng Tố Nữ mà Nguyễn Bính gặp ngày trẩy hội Phủ Giầy, hết ngày lễ hội thì chàng còn tò tò theo nàng nhiều ngày nữa, chàng luôn luôn đi theo bên nàng cho đến ngày thứ tư, chàng lén dúi được vào tay cô Tố Nữ một mảnh giấy có mấy câu thơ sau:

“Em ở cõi trần hay cõi tiên?
Phủ đền nhang khói nức hương em
Xin đi chầm chậm cho theo với
Lộc Thánh dâng người một trái tim”.

Cô gái Tố Nữ nhanh nhẹn cầm lấy mảnh giấy nhưng nàng thẹn thùng ngó lơ đi nơi khác. Tuy vậy chỉ cần như thế là chàng đã mãn nguyện sung sướng tràn ngập trong lòng rồi. Như thế phải chăng Nguyễn Bính đã là một thi sĩ thật lãng mạn và si tình. Cuộc tình vẫn chưa chấm dứt, nàng sau đó đã theo mẹ về quê và chàng tìm cách đi theo cho đến tận nơi nàng ở. Tuy nhiên có lẽ mối tình đầu này kết quả chỉ đẩy đưa tới đó mà thôi bởi vì chỉ chừng ba tháng sau thì gia đình nàng đột ngột bán nhà chuyển đi nơi khác, thế là người tiên Tố Nữ của chàng đã biến mất, nhưng hình ảnh nàng Tố Nữ trẩy hội Phủ Giầy đầu chít khăn nhung mỏ qụa, có lúc nàng thả tóc đuôi gà thật xinh vẫn luôn ám ảnh trong tâm hồn chàng thi nhân Nguyễn Bính, một bóng hình khó lạt phai.

Nguyễn Cao Can
San Jose – 2007
Nguồn: Chim Việt Cành Nam

 

 

Hoàng Thị Ngày Xưa,, Ngày Nay - Phanxipăng

 

HOÀNG THỊ NGÀY XƯA, NGÀY NAY

Bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị của thi sĩ Phạm Thiên Thư được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành bài hát cùng nhan đề vào năm 1971, được nhiều ca sĩ lần lượt thể hiện, tạo sức lan toả sâu rộng. Cũng từ đó, đề cập đến nữ nhân vật trong tác phẩm Ngày xưa Hoàng Thị, vì lắm lý do, có những ngộ nhận đã xảy ra khá nực cười.





Thơ bay bằng cánh nhạc

Phạm Thiên Thư có họ tên Phạm Kim Long, chào đời năm Canh Thìn 1940 tại Hải Phòng trong một gia đình Đông y mà cha gốc Thái Bình, mẹ gốc Bắc Ninh. Giai đoạn 1943 – 1951, Phạm Thiên Thư sống ở Hải Dương, rồi theo gia đình vào Nam, cư ngụ tại Sài Gòn từ năm 1954. Lớp đệ tam (tương đương lớp 10 hiện thời), Phạm Thiên Thư học trường Trung học tư thục Văn Lang ở khu Tân Định, quận 1, chung lớp với một nữ sinh gốc Hải Dương là Hoàng Thị Ngọ tuổi Nhâm Ngọ 1942.

Phạm Thiên Thư kể:

-Hoàng Thị Ngọ dáng người thanh mảnh, tóc thả ngang vai. Xếp hàng vào lớp, nàng đứng đầu hàng nữ, tôi đứng cuối hàng nam. Vào lớp, nàng ngồi bàn đầu, tôi ngồi bàn cuối. Ngọ học giỏi, còn tôi thì giỏi… đánh lộn. Thế mà tôi yêu nàng. Yêu đơn phương. Nhà tôi ở đường Trần Khát Chân. Nhà Ngọ ở đường Trần Quang Khải. Mỗi lần tan trường, nàng ôm cặp đi bộ về nhà, tôi cứ lẽo đẽo theo sau.

Phạm Thiên Thư thi đỗ tú tài bán phần (1) rồi trở thành sinh viên phân khoa Phật học thuộc Viện Đại học Vạn Hạnh (2). Từ năm 1964, Phạm Thiên Thư trở thành tu sĩ Phật giáo với pháp hiệu Thích Tuệ Không, trải qua các chùa Kỳ Quang (3), Từ Vân (4), Vạn Thọ (5). Mặc dầu ăn chay và khoác nâu sồng, những mỗi lần đi về khu Tân Định, Phạm Thiên Thư lại bâng khuâng luyến nhớ mối tình đơn phương thuở học trò. Xúc cảm, Phạm Thiên Thư sáng tác bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị, âu yếm gọi rõ tên nàng trong khung cảnh mây đỏ, cây đỏ, hoa đỏ, bụi đỏ:

Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn
(…)
Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng dáng đỏ

Phạm Thiên Thư cho biết:

-Năm 1968, tôi ấn hành cuốn sách đầu tay Thơ Phạm Thiên Thư (6) với số lượng ít ỏi, chỉ 500 bản. Lúc đó, tôi là tu sĩ, ngại bất tiện nên chỉ in bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị theo dạng trích. Đến năm 1971, gặp nhạc sĩ Phạm Duy, tôi trao trọn vẹn bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị. Ít lâu sau, Phạm Duy phổ bài thơ này thành bài hát. Năm 1974, tôi in đầy đủ bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị trong thi tập Ngày xưa người tình (6).

Phạm Duy viết trong hồi ký Nhớ (NXB Trẻ, 2005): “Sự gặp gỡ của tôi với Phạm Thiên Thư – mà thi sĩ gọi là của một ngọn núi với một đám mây – là do hai chúng tôi vô tình cùng đi thăm một người quen đang nằm trong một bệnh viện. Gặp Phạm Thiên Thư ở đó, tôi yêu mến anh ngay. Sau đó, thi sĩ luôn luôn tới nhà tôi đàm đạo. Lúc bấy giờ, tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi. Đọc được bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị mà anh bạn trao cho, tôi như bắt được viên ngọc quý và xin phổ nhạc ngay.”

Trong “nhạc tập 2” Đưa em tìm động hoa vàng (NXB Trẻ, 2006), trước ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, Phạm Duy ghi: “Sài Gòn 1971. Tôi gặp Phạm Thiên Thư vào lúc tôi đang soạn những bài ca cho tình yêu và tuổi học trò như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi. Tôi được vị tu sĩ vừa cởi áo nâu sồng đưa cho một bài thơ cũng nằm trong đề tài này để phổ nhạc, chỉ khác có một điểm là cô bé trong bài thơ không mang những cái tên diễm lệ như Tuyết Nhung hay Dạ Thảo, mà mang một cái tên rất bình dị là Ngọ, Hoàng Thị Ngọ. Tôi dùng một âm giai ngũ cung và một thể nhạc kể truyện để đưa ra tình khúc rất bụi đỏ đường mơ này.”

 

Ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị được Phạm Duy soạn nhịp ¾, tiết tấu valse (7), âm giai chủ chuyển từ si giáng trưởng sang đô trưởng, tôn vinh kỷ niệm tình yêu học trò tương ứng mạch thơ của Phạm Thiên Thư. Thế nhưng, khi trở thành ca từ trong bài hát cùng nhan đề, lời thơ Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm Thiên Thư đã được Phạm Duy linh hoạt chuyển biến khá nhiều về từ ngữ và bố cục.

Với ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị, thoạt tiên, Phạm Duy ghi: “Allegro” (8). E rằng thuật ngữ tiếng Ý kia chưa diễn tả đủ sắc thái cần thiết, nên nhạc sĩ chua nghĩa: “Nhanh mà buồn”. Sau này, nhạc sĩ chỉnh lý: “Kể chuyện”.

Giữa năm 1971, nhạc phẩm Ngày xưa Hoàng Thị liền được in rời với bức ảnh Rừng thu của nhiếp ảnh gia Nguyễn Xuân Tính, rồi tái bản ngay với tranh màu nước tươi trẻ sinh động của hoạ sĩ ViVi (9). Năm 1974, Phạm Duy ấn hành tập nhạc Con đường tình chúng ta đi (NXB Gìn Vàng Giữ Ngọc) gồm 16 ca khúc, trong đó có Ngày xưa Hoàng Thị.

Cũng từ năm 1971, qua làn sóng phát thanh và truyền hình, đồng thời qua băng từ, ca sĩ Thái Thanh ngân vang Ngày xưa Hoàng Thị. Sau đó, trên các nền hoà âm phối khí khác nhau, Ngày xưa Hoàng Thị được lần lượt thể hiện bởi bao chất giọng: Thái Hiền, Julie Quang, Thanh Lan, Sơn Ca, Hoạ Mi, Hương Lan, Ý Lan, Ngọc Hạ, Quang Linh, Khánh Linh, Đức Tuấn, Quốc Đại, Nguyễn Hoàng Nam, Thái Hạnh Quyên, Thu Hiền, Thu Thuỷ, Mai Hương, Quỳnh Hương, Đoan Trang, Phương Vy, Kim Ánh, Thuỳ Dung, Mỹ Huyền, Thanh Ngọc, Thanh Thuý, Thanh Hằng, Thanh Hà, v.v..

Đừng đổi thay nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ!

Tìm hiểu về nguyên mẫu nhân vật trong các tác phẩm văn nghệ (thơ, văn, nhạc, hoạ, múa, điêu khắc, nhiếp ảnh, điện ảnh, v.v.) là nhu cầu của đông đảo công chúng cùng các nhà nghiên cứu tự ngàn xưa đến mai sau. Tác phẩm càng nổi tiếng, nhu cầu đó càng cao. Bài hát phổ thơ Ngày xưa Hoàng Thị được phổ biến rộng khắp, trở thành “hiện tượng”, tất nhiên thiên hạ càng muốn biết nguyên mẫu người phụ nữ mang họ tên mộc mạc chân chất Hoàng Thị Ngọ. Tôi hỏi:

-Hoàng Thị Ngọ đang ở đâu?

-Nàng hiện định cư tại Hoa Kỳ, Phanxipăng ạ.

Phạm Thiên Thư đáp thế, đoạn tiếp:

-Báo chí miền Nam trước đây, gồm tờ Bách Khoa và tờ Sống, đã thực hiện đề tài: nhân vật chính trong Ngày xưa Hoàng Thị là ai? Hình như giai đoạn đó, đồng bào quá hoang mang vì chiến sự ác liệt nên ít đọc, hoặc đọc xong thì quên béng, bởi thế sau này mới xảy ra những ngộ nhận nực cười.

Hà Đình Nguyên ghi chép lời của Phạm Thiên Thư rồi đăng báo Thanh niên 6-6-2011, sau đưa vào tập 1 Những bóng hồng trong thơ nhạc (NXB Thời Đại, 2011): “Sau khi bản nhạc ra đời, ca sĩ Thái Thanh là người hát đầu tiên. Không những thế, bài hát còn lan rộng trong quảng đại quần chúng, đi đâu cũng nghe người ta hát, nhất là trong giới sinh viên học sinh. Rồi có vài ba cô gái tự nhận mình là cô Ngọ trong Ngày xưa Hoàng Thị. Nổi đình nổi đám nhất là cô bạn gái của nhà thơ Du Tử Lê tên là Thảo nhưng nhất quyết “đòi” quyền làm… Hoàng Thị Ngọ, đến đỗi nhạc sĩ Phạm Duy phải đến gặp tôi để hỏi cho ra nhẽ.”

Kỳ thực, Thảo chẳng phải tên thật, mà tắt hoá bút hiệu / bút danh: Hoàng Dược Thảo, chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Sài Gòn Nhỏ, toà soạn đặt tại California, Hoa Kỳ. Hoàng Dược Thảo có họ tên tiếng Việt là Huỳnh Thị Châu, họ tên tiếng Pháp là Brigitte Lauré Huỳnh. Năm 1971, tại Sài Gòn, học lớp đệ nhị (tương đương lớp 11 hiện thời), Châu lấy nhà thơ Du Tử Lê (10), rồi sinh 2 con. Năm 1975, Du Tử Lê sang Hoa Kỳ. Năm 1978, nhờ có quốc tịch Pháp, Châu đi Pháp rồi qua Hoa Kỳ. Ly dị Du Tử Lê năm 1980, sau đó Huỳnh Thị Châu mấy lần tái giá. Viết văn và làm báo, Huỳnh Thị Châu ký các bút danh Hoàng Dược Thảo, Đào Nương, Thuỵ Châu, Nghé Ngọ, v.v.

Dư luận gần xa vụt râm ran khi Hoàng Dược Thảo tuyên bố rằng bản thân mình chính là nguyên mẫu nhân vật Hoàng Thị Ngọ trong bài thơ lẫn bài hát Ngày xưa Hoàng Thị. Phản ứng với vụ việc này, tuần báo Việt (11) số 24 phát hành ngày 9-7-2005 tại California, Hoa Kỳ, đăng bức thư của thi sĩ Phạm Thiên Thư do nhạc sĩ Phạm Duy chuyển. Thư nọ cho biết: Hoàng Dược Thảo tức Huỳnh Thị Châu chẳng phải là Hoàng Thị Ngọ.

Mọi chuyện tưởng đã hai năm rõ mười, ai ngờ vừa qua, tháng 3-2012, tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng do trường trung học phổ thông cùng tên ở Huế dịp kỷ niệm 95 năm thành lập cơ sở giáo dục này ấn hành có đăng bài Ngày xưa Đồng Khánh của Bạch Lê Quang trình bày những suy tư quá ư sai lệch: “Không hiểu sao, cứ mỗi lần nghe Ngày xưa Hoàng Thị (thơ Phạm Thiên Thư – Phạm Duy phổ nhạc), tôi cứ nghĩ hình như khúc thánh ca tình yêu tuổi học trò nầy là riêng dành cho Đồng Khánh, cho Huế và cho những ‘Áo tà nguyệt bạch’ của một thời niệm khúc ngày xưa. Nhưng cũng không thể nghĩ khác hơn. (…) Và nữa, ngoài cái đường mưa nho nhỏ ướt rượt cả không gian Huế, lại còn ‘Áo tà nguyệt bạch / Ôm nghiêng cặp sách / Vai nhỏ tóc dài…’ Chao ơi, ai cũng có thể ôm nghiêng cặp sách nhưng với style vai nhỏ tóc dài thì đó là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm thức Huế. (…).

 Rồi thì, sau cái vai gầy rất Đồng Khánh kia đó là dáng. Dáng Ngọ. Ngọ của Phạm Thiên Thư. Và Ngọ của Huế, của lau lách Vĩ Dạ buốt lạnh cả thơ Hàn trong một đêm trăng sông mộng mị.

‘Anh đi tìm Ngọ
Dáng lau lách buồn
Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối.’

(…)

Vâng, đường mưa nho nhỏ, áo tà nguyệt bạch, vai nhỏ, dáng gầy lau lách… là hình, là diện. Đồng Khánh nhất trong Ngày xưa Hoàng Thị của Phạm là cái tình ơi, tình ơi. Đồng Khánh là vậy. Tan trường, biết có người theo sau vẫn ‘Bước em thênh thang / Áo tà nguyệt bạch’. Quá lắm là cả một lặng im với cái mím môi rất chi là Huế.

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở
Thương ơi! Vạn thuở
Biết nói chi nguôi
Em mím môi cười
Anh mang nỗi nhớ’.

Biết làm sao được. Hoàng Thị là vậy. Muôn đời vẫn có một Đồng Khánh ẩn mình trong tâm hồn Huế để cho đời một thứ tình mà Hà Huyền Chi gọi là tình… nấp. (…) Chàng Tư Mã họ Phạm (mà không riêng gì họ Phạm) trước thứ tình nấp đó chỉ biết ‘Anh đi theo hoài / Gót giày thầm lặng’ rồi ‘Anh đi theo Ngọ / Dáng lau lách buồn’. (…) Đến đây thì không thể nghi ngờ gì nữa, có một Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho Đồng Khánh.”

Nhắc một bài hát quen thuộc, nhưng Bạch Lê Quang không dẫn ca từ mà dẫn thơ, trong khi hai khoản này có những khác biệt nhất định. Dẫu khác biệt, song nữ nhân vật duy nhất trong thơ lẫn ca khúc Ngày xưa Hoàng Thị vẫn cùng một người là Hoàng Thị Ngọ. Oái ăm thay, với lối gán ghép cực kỳ khiên cưỡng và trá mị của Bạch Lê Quang, nguyên mẫu Hoàng Thị Ngọ gốc Hải Dương ở Sài Gòn bị biến thành nữ sinh trường Đồng Khánh có liên quan hoặc cư ngụ nơi thôn Vĩ, bây giờ là phường Vĩ Dạ, thành phố Huế. Mà sao lại làng Vĩ Dạ, chứ không phải làng Nguyệt Biều, bây giờ thuộc phường Thuỷ Biều, thành phố Huế, nổi tiếng với bao giai nhân dòng Hoàng Trọng, nhỉ? Cụm từ “cái vai gầy rất Đồng Khánh” thể hiện thói tật ba hoa một tấc đến trời. Vai nhỏ tóc dài há lẽ “là hàng độc của một made in Đồng Khánh ngày xưa trong tâm thức Huế”, chứ không thể mô tả phần nào vóc dáng nữ sinh của mọi trường trung học thuở trước lẫn bây giờ trên toàn đất nước Việt Nam ư? Còn Tình ơi! Tình ơi! (ghi đúng theo nguyên tác của Phạm Thiên Thư) chẳng chất chứa đặc điểm gì “Đồng Khánh nhất”, nếu gắn chặt với bài thơ Ngày xưa Hoàng Thị chắc chắn phải “Văn Lang nhất”, bằng không thì bất kỳ nơi chốn nào trong cõi-người-ta cũng được.

Tại quận 10, TP.HCM, đọc xong bài Ngày xưa Đồng Khánh, nhà thơ Phạm Thiên Thư bị “sốc toàn tập”. Không thể kìm nén nỗi bất bình nên Phạm Thiên Thư nói lớn giữa quán cà phê Hoa Vàng:

-Tập san Đồng Khánh – Hai Bà Trưng ghi rõ rằng Bạch Lê Quang là giáo viên tổ trưởng tổ Văn trường trung học phổ thông Phan Đăng Lưu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thế thì đáng buồn thật! Chẳng rõ kiến thức đâu, tư duy đâu mà Bạch Lê Quang đổi trắng thay đen, tán rằng Hoàng Thị Ngọ là nữ sinh trường Đồng Khánh ở Huế, lại còn bốc rằng Ngày xưa Hoàng Thị dành riêng cho Huế, cho trường Đồng Khánh, hả?

Phanxipăng

(1) Tú tài bán phần / tù tái đơn / tú tài I thi cuối lớp đệ nhị / lớp 11. Tú tài toàn phần / tú tài kép / tú tài II thi cuối lớp đệ nhất / lớp 12. Tại miền Nam Việt Nam, từ niên khoá 1971 – 1972, Bộ Quốc gia Giáo dục ban hành Nghị định 939GD/KHPC/HV/NĐ bãi bỏ tú tài bán phần.

(2) Là đại học tư thục đầu tiên tại Việt Nam, Viện Đại học Vạn Hạnh được Phật giáo đầu tư và hoạt động từ năm 1964 đến năm 1975 do tỉ khâu Thích Minh Châu làm Viện trưởng, tỉ khâu Thích Mãn Giác làm Viện phó. Mới thành lập, Viện Đại học Vạn Hạnh tạm đặt tại chùa Xá Lợi và chùa Pháp Hội; tới năm 1966 thì dời đến cơ sở biệt lập tại 222 đường Trương Minh Giảng, nay là đường Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM. Với chủ trương “duy tuệ thị nghiệp”, Viện Đại học Vạn Hạnh thuở ấy có các phân khoa: Phật học, Văn học và Khoa học nhân văn, Khoa học xã hội, Giáo dục, Khoa học ứng dụng.

(3) Đây là chùa Kỳ Quang I, hiện có địa chỉ 22B Nguyễn Thị Huỳnh, P.8, Phú Nhuận. Trên địa bàn TP.HCM còn có chùa Kỳ Quang II tại 154/4A Lê Hoàng Phái, P.17, Gò Vấp; và chùa Kỳ Quang III tại 73 xa lộ Hà Nội, phường Thảo Điền, Q.2.

(4) Chùa Từ Vân còn được gọi chùa Bà Đầm, chùa Lý Dương Sanh, được Lý Thị Ly sáng lập năm 1932. Chùa này hiện có địa chỉ 62 Phan Xích Long, P.1, Phú Nhuận, TP.HCM.
(5) Nằm bên bờ kinh / kênh Nhiêu Lộc, chùa Vạn Thọ hiện có địa chỉ 212/158 Nguyễn Văn Nguyễn, phường Tân Định, Q.1, TP.HCM. Các vị hoà thượng trụ trì chùa này: Thích Huệ Nhựt giai đoạn 1942 – 1951, Thích Thiện Tường giai đoạn 1951 – 1966, Thích Bửu Tuyền giai đoạn 1966 – 1980, Thích Thanh Sơn từ năm 1980 đến nay. Chùa Vạn Thọ đang đặt văn phòng Ban Đại diện Phật giáo Q.1 và cơ sở chữa trị bong gân, trặc khớp xương.

(6) NXB Văn Chương, Sài Gòn.

(7) Tiếng Pháp: valse. Tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch, Na Uy: vals. Tiếng Bồ Đào Nha, Latinh: valsa. Tiếng Ý: valzer. Tiếng Hà Lan: wals. Tiếng Anh: waltz. Tiếng Ba Lan: walc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ Walzen trong tiếng Đức cổ (tiếng Đức hiện đại ghi Walzer), nghĩa gốc là uốn, xoay, lướt đi. Tiếng Hoa: 圓舞曲 mà bính âm phát yuánwǔqǔ, âm Hán-Việt phát viên vũ khúc.

(8) Theo Thuật ngữ và ký hiệu âm nhạc thường dùng do Đào Trọng Từ, Đỗ Mạnh Thường, Đức Bằng hợp soạn (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1984) thì thuật ngữ tiếng Ý allegro mang nghĩa: “Nhanh, vui, sôi nổi”.

(9) ViVi là một nghệ danh của hoạ sĩ Võ Hùng Kiệt, chào đời năm Ất Dậu 1945 tại Vĩnh Long; tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn năm 1968; vẽ bìa, vẽ truyện tranh cùng minh hoạ trên các tờ Tuổi Xanh, Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông, Bạn Trẻ, Tinh Thần, Trái Tim Đức Mẹ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Dân Chủ, Độc Lập, v.v.; trình bày một số sách giáo khoa và vẽ tem bưu chính.

(10) Du Tử Lê có họ tên Lê Cự Phách, chào đời năm Nhâm Ngọ 1942 tại tỉnh Hà Nam, di cư vào Nam năm 1954, từng làm thư ký toà soạn nguyệt san Tiền Phong, được trao giải Văn chương toàn quốc bộ môn thơ năm 1973, sang Hoa Kỳ năm 1975. Du Tử Lê có nhiều vợ. Với vợ kế Huỳnh Thị Châu / Thuỵ Châu, Du Tử Lê từng sáng tác các bài thơ Khúc Thuỵ Du (đã được nhạc sĩ Anh Bằng phổ thành ca khúc cùng nhan đề), Khi trông thư Thuỵ Châu, v.v.

(11) Việt Weekly

 

 

Thursday, September 26, 2024

Tuổi Mười Ba - Nguyên Sa

 Tuổi Mười Ba




Qua Phố Chiều Một Mình - Thuyên Huy

 Qua Phố Chiều Một Mình

 













Qua phố chiều một mình

Một mình con đường cũ

Chuông Đức Bà buồn tênh

Mùa Thu vàng lá đổ

 

Góc quán nhỏ bên lề

Nơi hẹn hò rồi nhớ

Mặn đắng giọt cà phê

Người xa người một thuở

 

Xạc xào lá me bay

Thả gió về cuối phố

Đường quen mòn gót giày

Lê Thánh Tôn mưa đổ

 

Phố đông phố không người

Xót xa tên thầm gọi

Bên kia sông chiều rơi

Thủ Thiêm đò đi vội

 

Một mình qua phố chiều

Chuyến xe lam ngày ấy

Khách vắng bến điều hiu

Bóng nắng tàn run rẩy

 

Thuyên Huy

 

 

 

 

 

Trăng Khuya - Vườn Thơ Mới Xướng Hóa

THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 155 - VƯỜN THƠ MỚI

 

 Xướng:

Trăng Khuya

 














Trăng khuya vằng vặc sáng lung linh

Cảnh vật xung quanh thật hữu tình

Thanh vắng chơi vơi hồn lạc lỏng

Bao la rộng lớn khắp hành tinh

Dạt dào thấu hiểu lòng nhân thế

Trong sáng mơ màng thệ chứng minh

Ngày ấy xa rồi lòng rộn rã

Dưới trăng đẹp lắm thuở thanh bình

Hương Lệ Oanh VA

Họa 1:

 

Trăng xưa

 

Rừng rậm âm u cảnh hiển linh

Tường đông lửa lựu ngát hương tình

Hồn quê quạnh quẽ đời dâu bể

Xuân sắc đong đầy nắng thủy tinh

Cầu Thệ Thủy, đêm trăng bóng rũ

Bến Vân Lâu đợi, tiết thanh minh

Hương xưa một thoáng còn lưu luyến

Núi Ngự tròn trăng đẹp thái bình.

Nguyễn Cang

Sept. 16, 2024

Họa 2:

 

Chim chìa vôi

 

Văng vẳng đâu đây tiếng tích linh

Chim kêu báo hiệu rất vô tình

Trăng khuya ẩn hiện nơi đầu ngõ

Tuyết trãi sân nhà chiếu trắng tinh

Động vật trời sinh ai biết được

Bản năng thiên phú rất thông minh

Chìa vôi tên gọi nơi dân dã

Nhảy nhót vui chơi cảnh thái bình

PTL

tích linh 鶺鴒: chim chìa vôi. Người ta còn gọi nó là Tuyết cô 雪姑 vì khi nó kêu thì tuyết rơi và nó thich ăn tuyết.

(Double click xem video)

Họa 3:

 

Mạt Pháp

 

Đại Đức Ba Vàng dựng chuyện linh

Cúng dường bá tánh quá thâm tình

Phước sương tràn ngập Thầy vô đạo

Biến chất sãi sư thái hoá tinh

Mạt Pháp nhiễu nhương sầu biến chất

Mãn Thời hỗn loạn kiếp vô minh

Kẻ còn tim óc lòng tơi tả 

Phép lạ ban cho tựa thủy bình

THT

Phước sương 福廂: thùng chứa đựng phước.

Mạc Pháp: Mạc  là cái ngọn, pháp là giáo lý của 1 nền tôn giáo. Mạc Pháp là thời kỳ cuối cùng của chính pháp, còn gọi là mạc thế末世

Thủy bình 水平 nước phẳng

Đại Đức Ba Vàng:

https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch_Tr%C3%BAc_Th%C3%A1i_Minh

 

Họa 4:

 

Trung Thu Thuở Ấy

 

Tiếng trống múa lân đón phước linh,

Đêm rằm tháng tám đượm bao tình.

Hoa đăng dưới phố đầy kim tú,

Nguyệt tỏ tầng không mãn thủy tinh.

Trẻ nhỏ rước đèn trong bóng tối,

Tao nhân phó hội tới bình minh.

Trà thơm bánh mứt bình thơ phú,

Trai gái đàn ca cảnh thái bình.

Mỹ Ngọc

Sept. 17, 2024.

Họa 5:

 

Trăng nhớ

 

Vằng vặc đường trăng bóng diệu linh

Dáng in bến cũ đượm thâm tình

Bâng khuâng rảo bước trên đường vắng

Khắc khoải thả hồn  trước lối tinh

Nhớ mãi vòng tay thời thiện mỹ

Thương hoài nụ thắm thủa anh minh

Miên man chợt tĩnh dừng chân hỏi

Đêm đã tàn canh bóng nguyệt bình

TQ

Sep 16, 2024

Họa 6:

 

Vịnh trăng

 

Chú cuội ôm cành đa hiển linh,

Lên chơi trăng sáng biết bao tình.

Địa cầu xoay chuyển xuân - thu - hạ…

Vũ trụ giao hoà nhật - nguyệt - tinh.

Vầng ngọc khuyết tròn luôn trác tuyệt,

Máy trời đặt để quá thông minh.

Che rèm ẩn mặt khi mưa bão,

Gợi hứng thi nhân mộng thái bình.

Minh Tâm