Tương tư
Friday, September 13, 2024
Hoài Cảm - Nguyễn Cang
HOÀI CẢM
(ngũ độ
thanh)
Qua từng quãng rộng tới Đèo Ngang
Dõi mắt rừng
cây cảnh địa đàng
Viễn mộng
mây trời trông chớn chở
Khơi nguồn
nghệ sĩ vốn còn mang
Vườn xưa
Vỹ Dạ đau lòng quốc
Mộ cũ Thần
Kinh lá chuyển vàng
Đã mấy
mùa Thu giờ trở lại
Nghe lòng thổn thức vọng Trường giang.
Nguyễn
Cang (Aug. 13, 2024)
Lầu 3 Phòng 7 - Bình Nguyên Lộc
Ục…ục…ục…uột…
Quỳnh vội bịt lỗ tai lại. Chàng rất sợ tiếng
nước ở bồn rửa mặt của phòng bên cạnh. Nó kêu như ai ăn phải của khó tiêu, bị
ruột kêu sôi ồn ột. Đáng ghê nhứt là cái tiếng “uột” sau cùng, kéo dài bất tận.
Ở đây có những tiếng động khiếm nhã khác nữa.
Đó là tiếng giày nện lên gạch, tiếng nước cầu xí, tiếng đàn vĩ cầm ai mới học,
kéo ọ ẹ suốt ngày.
Trên đầu chàng, ở cái buồng từng trên, người
chiếm ngụ làm gì mà cứ kéo ghế, kéo bàn mãi cả ngày lẫn đêm, như ma dậy nhà
hoang.
Người ta hay tỏ ý chê bai đồng bào Thượng trên
cao nguyên, ở trong những ngôi nhà công cộng dài nhằng, hai, ba mươi gia đình
chồng chất lên nhau rất là mất vệ sinh. Nhưng cái bọn văn minh nầy, bày ra
buyn-đin để chen chúc nhau trong đó, thì cũng thế thôi.
Quỳnh thuê căn buồng số 7 để làm chỗ ẩn thân. Ở
nhà, khách khứa đông đảo, người nhà rộn rịp, chàng không thế nào làm việc được.
Với lại, con người có đời sống bên trong, luôn
luôn mỗi ngày thích dành ra một lúc để quay về với chính mình. Những lúc ấy, hắn
cần được yên thân. Ở đây yên thân nhứt: gia đình, bạn hữu, nào có biết để mà
theo quấy rầy chàng.
Ngoài ra, chàng được hưởng thêm nhiều thú
khác. Chàng nghe như mình đang du lịch ở những nơi xa, sống cô đơn nơi một buồng
khách sạn, cái buồng nặc danh với những bức tường trắng không tranh ảnh, không
mang một bản sắc nào. Cái mộng viễn du chưa bao giờ thỏa, thế là được ảo tưởng
nầy bù cho.
Chàng lại nghe hay hay, nhớ lại thuở thanh
xuân, trốn nhà đi chơi lêu lổng, nay ngủ chỗ nầy, mai ngủ nơi khác…
Ục..ục…ục…uột…
Lần nầy, Quỳnh không bịt tai nữa, vì chàng thấy,
chàng rất bất công. Chính chàng cũng đã gây tiếng động khiếm nhã. Mỗi lần đến
là chàng đánh máy ầm trời.
Những người ở chung quanh buyn-đin với chàng
tò mò tìm biết anh chàng nầy làm nghề gì, mà mỗi ngày chỉ đến có mấy tiếng đồng
hồ thôi, mà hễ đến, là đánh máy liên tu bất tận. Lắm đêm, hắn bốc đồng, lên đó
vào lúc mười giờ, mở đèn sáng choang, rồi đập sành sạch không cho ai ngủ cả.
Ở đây có những công chức cao cấp, những sĩ
quan, những thương gia chưa sắm nổi biệt thự. Bề ngoài thì như là không ai thèm
chú ý tới ai, nhưng chàng tinh mắt, biết họ cố tìm căn cước chàng, một gã khả
nghi. Hắn đánh truyền đơn chăng? Chỉ có người quản lý buyn-đin là hơi biết hắn
làm gì thôi, vì hắn phải khai sự thật ở đó.
Họ ngạc nhiên là không bao giờ có bạn đến thăm
hắn. Lại càng khả nghi hơn nữa.
Nhưng mà rốt cuộc, hắn cũng có bạn. Đó là một
người bạn gái, xinh như các thiếu nữ trong cổ tích. Lần đầu tiên, cô bạn ấy lên
đây, một viên…gặp cô ta ở chân thang, đã kinh ngạc vì sắc đẹp của cô. Cô bạn
leo thang chớ không dùng thang máy. Người ấy không ngại trễ giờ làm việc, leo cả
sáu chiếc thang lầu để theo cô ta, cho biết cô ta đi đâu.
Thế rồi, người ta đồn ầm lên rằng, hắn thuê buồng
để tiếp nhân tình.
Quỳnh chỉ mong được thế. Nhưng cô ta chỉ là bạn
thôi. Đó là một văn hữu mới quen.
Nói văn hữu, thì ra suy tôn cô bạn quá. Thật
ra, chỉ là một bạn đọc yêu văn chàng và vốn cũng thích viết văn.
Họ gặp nhau trong một trường hợp kỳ dị hết sức
và chính cô gái đã làm quen trước với chàng. Cô gái thông thạo các vấn đề văn
nghệ, biết tất cả văn nghệ phẩm Việt và ít nhiều tác phẩm ngoại quốc, nên chi
trong buổi đầu gặp gỡ, chàng nói chuyện giỏi một cách dễ dàng, vì khỏi phải ra
ngoài địa hạt của chàng. Cô gái ngỏ ý muốn nhờ chàng chỉ dẫn cho công việc sáng
tác. À, còn gì sung sướng bằng. Chàng chỉ mong có bấy nhiêu đó, mà không dám đề
nghị trước. Chán vạn thằng khác nó dâng công cho gái như vậy và được gái yêu.
Chàng khỏi phải lập công với ai, mà kết quả cũng có thể đi đến đó.
Công việc đầu tiên của chàng là đặt cho bạn một
biệt hiệu văn nghệ. Không biết ai đó đã đặt dùm nàng một bút danh rất là sáo:
cô Song Thu. Sao lại nói đến hai mùa thu trong con người nô nức thanh xuân ấy,
nơi con người nồng cháy cả một mùa hè sinh lực ấy !
Quỳnh đã dâng bạn một bút hiệu hơi bí hiểm: cô
Long Hoa.
Nhưng, mặc dầu là văn hữu, họ vẫn gọi nhau bằng
tên cúng cơm, tên mà người ngoài không ai biết cả.
Nàng nói:
-Biệt hiệu của anh là của muôn người; em chỉ
thích kêu anh là anh Quỳnh thôi, vì Quỳnh mới là của riêng em.
Công việc đầu tiên của Lệ, tên nàng, là sắm một
tấm vải màu phủ mặt bàn, chiếc bàn độc nhứt dùng làm bàn ăn, đánh máy và ngồi
lên đó chơi, mà chàng để trơ trẽn ra đó, không phấn son gì cả.
Cô bạn lại mua tranh, bắt Quỳnh phải treo lên vách.
Cái buồng bây giờ đã có cá tính của nó, chớ
không còn là buồng nặc danh của khách sạn hay phòng thuê nữa.
Người ta thấy là đờn bà đã vào phòng đó, hơn
thế, một người đờn bà có học, có óc thẩm mỹ và khéo léo tay chơn.
Nhưng Quỳnh lấy làm thất vọng. Họ gặp nhau đã
sáu lần rồi, mà cô bạn, xem chừng, không vội học sáng tác cho lắm.
Cô bạn nói rất nhiều chuyện mưa, chuyện nắng,
mà nói rất có duyên. Quỳnh, tuy không phải chỉ biết nói về văn nghệ không mà
thôi, nghĩa là, tuy chàng, cũng vui được với chuyện chó chẹt, ô-tô và chuyện đờn
bà giựt hụi, nhưng chàng không khỏi bất mãn vì người văn hữu chưa đến. Thân thể
y có mặt, nhưng người bạn văn của lúc gặp gỡ, thì vẫn chưa thấy bóng hình.
Quỳnh cũng biết thích bạn gái như ai, phương
chi đây là một người bạn gái đẹp và thông minh, lại có rất nhiều cảm tình đối với
chàng, thì chàng còn mong gì hơn.? Nhưng chàng cứ mong hơn. Vì chàng đã dọn
lòng để đón một văn hữu chớ không phải để rước giai nhân.
Sao người văn hữu lại không đến? Mỏi mòn nhìn
con đường xa, gió cuốn bụi hồng, mỏi mòn trông đợi một bóng ngựa viễn phương
mang đến người bạn văn trễ hẹn, Quỳnh nhẫn nại tiếp đón mỹ nhơn, dầu sao, cũng
đang có mặt.
Nếu không đợi người kia, thì chàng đã yêu người
nầy từ lúc ban đầu. Người đờn bà đẹp, chỉ để cho người ta yêu thôi, chớ không
dùng được vào việc gì cả. Cô bạn nầy, trời sanh ra làm gì và đến đây để làm gì,
thật là không có lý do, y như là trời đã sanh ra hoa hồng và hoa hồng lại bị cắm
vào miệng lọ, chỉ có một lý do nhỏ thôi, là làm cho vui mắt chủ nhà.
Chủ nhà không thuê buồng để tiếp gái đẹp, thuê
buồng xong, không thèm sắm lọ, thì hoa hồng vào đây, có phải là không biết điều
lắm chăng?
Nhưng nó đã vào và nó đẹp, chủ nhân đang buồn,
bạn không đến, thì không lẽ lại không nhìn nó.
Nó xinh đẹp ghê hồn khiến chủ nhân cũng đến thấy
mình ngốc quá, mà đã xem thường nó.
Trời sanh người đờn bà đẹp làm gì, nếu không để
cho người ta yêu. Quỳnh yêu nàng vậy. Nhưng không dễ dàng lắm đâu.
Phụ nữ Việt Nam đã bắt đầu bị Âu hóa thật sự.
Họ đến buồng đờn ông, nhưng vẫn tự vệ, nếu bên nam giới không khéo xử thế, thì
cũng chẳng đi đến đâu được.
Quỳnh đã khéo xử thế. Cuộc đùa giỡn với ái
tình gay cấn và cam go quá, khiến chàng say mê, say cái say chiến đấu của văn
nghệ sĩ, cái gì dễ dàng quá thì không ham, mà chỉ mê mệt đối với những sáng tạo
đau đớn thôi.
Chàng đã thắng.
Nhưng trong giây phút ôm thiếu nữ trong tay,
chàng bỗng nghe rỗng không trong lòng và quanh mình.
Trời ơi, thật là không có gì cả, cái phút giây
mà người ta gọi là thần tiên!
Chàng đã vật lộn với tình cảm, với tư tưởng,
đã lao khổ sáng tác, và rốt cuộc, đẻ ra được những cái gì bền vững, mà chàng
thích nâng niu lâu ngày.
Ở đây, chàng cũng đã lao khổ chiếm trái tim một
giai nữ nhưng khi thành công xong, chàng không thấy được gì cả.
Chắc thiếu nữ đang nằm trong tay chàng, thầm
nói:
-Sướng đấy nhé! Anh đã được em rồi đó, có
thích hay không?
Không, chàng không thích, hay có thích cũng chỉ
như đứa bé được quà, thích như vậy thôi, chớ làm sao mà có được những xúc cảm
mê ly của cái phút chấm dứt một văn nghệ phẩm?
Nhưng mà cũng an ủi phần nào. Người văn hữu
không đến, nhưng người tình nầy có thể là người văn hữu kia. Văn hữu chậm bước,
vì nàng cần phải sống cái đã, sống dưới cái võ ngoài của người phụ nữ thường, sống
đầy đủ về tình cảm và xác thịt. Sống thỏa mãn xong, người bạn văn sẽ cởi áo người
nhân tình mà thoát ra, và chừng đó, chàng sẽ được cả hai.
Quả thế. Trận giặc ái tình chấm dứt bằng một
hiệp ước yêu đương. Lệ bắt đầu học tập. Ông thầy dạy văn làm phận sự rất dễ
dàng, vì nàng đã khá thạo kỹ thuật viết.
Quỳnh thấy mình phải dắt bạn bước qua giai đoạn
thứ nhì ngay. Chàng nói:
-Viết văn chỉ là một thứ kỹ thuật, tương đối dễ
học. Nhưng muốn sáng tác, em cần phải có cái gì trong lòng, để mà nói ra, bằng
không, thì giã từ văn chương vậy. Lắm khi, đã có cái ấy trong lòng rồi mà nó
không cắn rứt mình, không kêu gào đòi chun ra lắm, thì cũng không thể sáng tác
được. Em có cái gì trong bụng không?
Lệ vả vào má chàng một cái đau điếng, cười, rồi
đáp:
-Sẽ có thằng con của anh chớ gì. Nhưng mà chưa
có, đừng có nghi bậy.
Cả hai cười xòa, rồi Quỳnh lập nghiêm, tiếp tục
bài giảng:
-Đứng đắn mà. Em có nỗi niềm gì muốn nói ra
chăng? Băn khoăn gì? Thắc mắc vì sao, bứt rứt chuyện chi?
-Không, em không băn khoăn về gì cả. Em chỉ mơ
yêu…
-Thế à? Mơ yêu cũng là một chuyện có thể nói
ra được, miễn là nói hay.
-Nhưng giờ đã yêu rồi, em hết mơ.
-Cũng vẫn cứ được, sự thỏa mãn trong tình yêu
cũng là một đề tài hay.
-Nhưng em không cần nói ra.
Quỳnh kinh ngạc, trừng trừng nhìn người bạn,
giây lâu mới hỏi được:
-Tại sao em lại thích viết văn?
Lệ làm thinh rất lâu, rồi cười đáp:
-Khó nói lắm.
-Nhưng mà một văn sĩ tập sự phải nói được, ít
lắm, là điều đó.
-Như thế nầy: Viết văn danh vọng lắm. Như anh,
ai cũng biết đến cả. Em cũng muốn được như vậy. Nhưng mà, nay học thêm với anh,
em thấy là phải khổ thân lắm mới bước tới đài danh vọng được.
Quỳnh bỗng nghe một trận địa chấn quanh chàng.
Chàng buông người bạn tình ra, lòng đau xót không tả được.
Người văn hữu đã chánh thức nhắn lời là không
đến, không bao giờ đến nữa cả. Hắn chỉ là một ảo tưởng và hắn đã tan trong
sương mờ.
Quỳnh nắm lấy cằm bạn, nhìn thẳng vào mắt
nàng, nhưng chỉ nói thầm một mình:
-Em bé ơi! Em bé không thích mang nặng, đẻ
đau, không chịu hoài thai cực khổ và không chịu chuyển bụng rên la, mà em bé lại
đòi có những đứa con nó đưa em bé lên đài danh vọng…
Thôi, em bé đi lấy chồng đi, lấy những người
đang ở trên cao, hoặc đang có tương lai nhiều. Một sớm, một chiều, các báo sẽ
nói đến phu nhân X…nào đó.
Viết văn, nào phải để leo lên đài đâu? Viết để
làm gì, lắm khi, chính anh cũng không biết. Nhưng đó là cái thai đã đến ngày,
những thằng bé cứ vặn mình đòi lọt ra. Đau như xé cả ruột gan, không muốn làm
cho nó ra, cũng không thể được.
Quỳnh muốn trả ngay căn buồng nầy. Hồn người
văn hữu sai hẹn cứ như còn quanh quất đâu đây. Phải trốn không khí nầy, mà bao
lâu nay phảng phất tiền hương, tiền vị của người khách mong đợi.
Bỗng có người bước lên thang gác. Đó là tiếng
giày đờn bà, nó làm cho chàng giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng.
Không, không trả căn buồng nầy đâu. Mỗi tiếng
động khiếm nhã ở đây đều gợi nhớ những giây phút hồi hộp đợi chờ. Mỗi lần nghe
tiếng động, chàng sẽ có dịp đi hành hương trong không gian, đi về phía bàn thờ
thần “Tình Bạn Văn’.
Cây vĩ cầm của cô hay cậu nào ở buồng số 5 cứ
kéo ọ ẹ mãi bản nhạc “Bên Sông vắng” của Tạ Tấn.
Nhưng lần nầy, chàng không nghe bực mình nữa.
Chàng lẩn thẩn đặt lời cho những nốt nhạc ấy, lời thật của tác giả, chàng đã
quên từ lâu, vì đó là một bản nhạc tiền chiến.
Đêm
nay tới bến, năm nào đây,
Tiếng gió vi vu bên sông vắng tanh,
Ngậm ngùi nhớ đến con đò xưa, năm ấy,
Quen nhau bởi một chuyến đò chiều.
Nhớ
người năm đó.
Bình Nguyên Lộc
Từ - E-
Book
Đọc sách - Vườn Thơ Mới Xướng Họa
THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 154_VƯỜN THƠ MỚI
Xướng:
Đọc sách
Đọc sách noi gương bậc thánh hiền
Tương lai tránh khỏi cảnh truân chuyên
Đường đi phía trước luôn ghi nhớ
Cuộc sống gập ghềnh với ngả nghiêng
Giao thiệp thâm tình nên nắm giữ
Tôn sư lễ nghĩa vẫn lưu truyền
Mai kia danh vọng đừng quên vội
Bần tiện chi giao lúc đảo điên
PTL
Bần tiện chi giao mượn ý từ câu “ Bần tiện chi giao mạc khả vong 貧賤 之交 莫忘”
(Người giao tiếp lúc còn nghèo, chớ nên quên.)
Họa 1:
Gia giáo
Vốn dòng gia giáo gái ngoan hiền
Tứ đức tam tùng tánh chính chuyên
Hiếu thảo thuận hoà luôn gắng nhớ
Thời xưa lễ độ khó chao nghiêng
Tương lai hạnh phúc không bờ bến
Lễ giáo gia phong tiếp tục truyền
Thế hệ đời sau mong giữ mãi
Duy trì đời trước chớ cuồng điên
Hương Lệ Oanh VA
Họa 2:
Ăn xôi chịu đấm
Rung đùi vênh váo cưới vợ hiền
Ngôn hạnh công dung lại chính chuyên
Gặp phải Hà đông đành chịu chết
Cuộc đời lên lão bỗng xiêu nghiêng
Ăn xôi chịu đấm lòng tê tái
Nghĩ lại suy đi ngỡ bí truyền
Híp mắt ngoại hình nên quyết vội
Để rồi khổ ải đến cuồng điên
THT
Họa 3:
Bao nhiêu gương sáng bậc tiên hiền,
Tìm học nên người, dạ gắng chuyên.
Hạnh đức dồi trau thường sáng tỏ,
Nghĩa nhân gìn giữ chẳng chinh nghiêng.
Chắt chiu kiến thức ngàn xưa trải,
Gạn lọc tinh anh vạn thuở truyền.
Thiên hạ đắm chìm trong lửa đạn,
Bởi tranh vương bá mộng cuồng điên.
Họa 4:
Rèn thân trí dũng đạo tâm hiền
Học phép giao tình mở dạ chuyên
Đao đức từ bi dù khốn khó
Nhân hòa bác ái dẫu chênh nghiêng
Noi gương tổ phụ ngàn năm giữ
Nối chí tiền tông vạn kiếp truyền
Nghĩa nặng thiên kim hằng ghi nhớ
Thành danh... Thất bại... Chẳng cuồng điên!
Sept. 02, 2024
Họa 5:
Thư sinh thủa trước thật ngoan hiền,
Phong độ đơn thuần học tập chuyên.
Phụ tử ơn thâm luôn hiếu đễ,
Quân thần trung tín chẳng nhào nghiêng.
Sư đồ nghĩa trọng mong đền đáp,
Bạn hữu tình bền mãi tụng truyền.
Xã hội văn minh thêm mệt mỏi,
Bon chen cuộc sống khiến cuồng điên.
Mỹ Ngọc
Sept. 6, 2024.
Họa 6:
Làm con phải giữ đạo tiên hiền
Cố gắng cần lao* học hỏi chuyên
Cuốc đất vùi chôn cành lá mục
Soi kinh cảm nhận cảnh chiều nghiêng
Đường trần dẫu gặp nhiều cay đắng
Phận số vần xoay cũng thấm truyền
Hệ lụy nhân gian đầy hỷ nộ
Bình tâm giải quyết tránh rồ điên.
Nguyễn Cang
Aug. 30, 2024
*Cần lao (勤勞):siêng
năng chịu khó, mượn ý 2 câu nói: Cần lao vi tiên thủ, (Có làm thì được trước).
Năng cán dĩ đắc thực. (Siêng làm thì tất sẽ có ăn)
Đánh Mất - Nguyễn Cang
( ngũ độ thanh)
Vầng trăng lạnh lẽo chiếu
nhà ai
Tỉnh dậy mình vươn bóng ngã dài
Lá đổ muôn chiều mi đẵm lệ
Đường qua vạn lối cảnh bi hài
Dù xưa lỗi hẹn tình dang dở
Cũng để u buồn sắc nhạt phai
Ảnh đẹp ngày nao còn rõ nét
Sao không giữ trọn tóc trâm cài ?
Nguyễn Cang (Aug. 10, 2024)
Wednesday, September 11, 2024
Rổ Ổi Ở Ga Giã - Trần Công Khanh
RỔ ỔI Ở GA GIÃ
Từ khi tôi biết cái ga Giã, nó chỉ
còn trơ trọi cái mái đúc hình chữ “L” ngược gồm năm nhịp cột đà. Thổ dân người
ta nói trong chiến tranh vào khoảng những năm 1950 máy bay ném bom sập hết nhà
ga chỉ còn cái mái hiên quay ra phía đường tàu.
Trần Công Khanh
Ga Giã xây dựng vào khoảng những năm
1930. Ngày 2.9.1936, người Pháp làm lễ khánh thành ga Nha Trang, đồng thời
tổ chức lắp thanh ray khớp nối cuối cùng ở ga Hảo Sơn, Phú Yên và làm lễ thông
đường sắt trên toàn cõi Đông Dương, từ Hà Nội vào Sài Gòn sang Nam Vang.
Sau 1954, Việt Nam chia thành hai nước
lấy giới tuyến là sông Bến Hải. Con sông này trùng tên với thằng em kề cuả tôi.
Chiến tranh xìu xìu ển ển được một
chút sau 1954. Ga Giã vẫn ôm tật nguyền dai dẳng. Ông Ngô Đình Diệm chủ trương
giữ chiến tranh ở cấp tiểu đội, trung đội, để còn phát triển kinh tế. Ông đồng
minh cỡ cố nội người ta tên là Hoa Kỳ không chịu và đạp đổ chế độ ông Diệm. Ông
đồng minh bắt đầu can thiệp sâu, đẩy cuộc chiến lên cao.
Nhà ga nào cũng toát đẫm mùi vị ly biệt.
Trong những chứng kiến ly biệt ấy, nó còn chứng kiến một sự tật nguyền 90% của
tự thân nó. Một chứng kiến khác thực rùng rợn hơn cả.
Một buổi trưa nắng, hai cậu nhỏ chăn
bò tinh nghịch, rủ nhau leo lên nóc nhà ga. Chúng nó đi lùa bò ra đồng bữa trước
lượm được một đầu đạn M72, về dấu sau vườn, trong cái nọc rơm chỉ có tụi nó
ngày ngày kéo rơm cho bò ăn. Bữa nay lùa bò nằm nhơi cỏ dưới cây bàng trước ga.
Chúng lén giấc trưa có vẻ như cả thị trấn đã ngủ trưa, đem cái đầu đạn lên mái
hiên thềm ga. Cu Tí và Cu Đỏ bắt đầu cưa cái đầu đạn…
Một tiếng nổ rung rinh mặt đất như
hai từ “cách mạng” từng nổ. Mái hiên sân ga rung rinh. Thịt xương hai đứa bé
văng tứ tung. Người nhà phải đi lượm lại từng miếng vụn.
Trước 1975 có một ngạch lính được nhiều
người chọn đi. Đó là lính bảo vệ thiết lộ. Hai ông anh con ông bác sáu của tôi
nhờ ông chú – ba của tôi – là sĩ quan ở Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế chạy cho đầu
quân ở đơn vị bảo vệ thiết lộ. Đường sắt hay bị giựt mìn, nhưng nghề lính này vẫn
an toàn hơn nghề lính nào khác.
Tôi và Hải cùng theo cha, thiếu tá
Ánh hôm ấy đi xe lửa về Giã thăm ông bà nội. Xe lửa lúc này chạy luôn luôn được
gắn phía trước đầu máy ba toa trần, không có thùng. Sau đầu máy ma nớp thêm ba
toa chở đá giăm trống. Xe vừa sắp tới ga Hòa Huỳnh, bỗng nghe một tiếng nổ lớn.
Hành khách trên tàu nhốn nháo tràn xuống cánh đồng, chạy về hướng Quốc lộ 1. Ba
tôi bình tĩnh dắt hai đứa con ra đường Quốc lộ để đón xe về lại Đồng Đế. Ông
không phải là lính quân trường mà trước đó từ Sư đoàn 7 bộ binh Việt Nam Công
Hòa thuyên chuyển về như một đặc ân cho người lính xa nhà đã nhiều năm, được cơ
hội gần nhà. Ông suýt chết ở trận Ấp Bắc – một cái ấp nằm phía bắc đi lên báo
chí Mỹ thành tên riêng. Cũng giống như Chí Hòa bị người Pháp ghi lại thành Kỳ
Hòa vì cho răng chữ “h” trong từ “chí” là “h” câm (h muet theo tiếng Pháp).
Tôi ngoái lại cánh đồng người nhìn về
phía đầu máy xe lửa. Ba toa xe trống chở đá giăm chồng lên nhau. Số người chết
trong vụ giựt mìn đó là ba đứa bán cà rem. Tụi nó chui lên toa trống đi cọp. Tới
ga nào ngừng lâu thì xuống bán cà rem cho khách. Dân bán cà rem với bò xài cùng
cái chuông lắc. Bò để khỏi bị người chủ lạc. Cà rem để tạo sự chú ý. Chỉ cần
nghe tiếng chuông là biết có bán cà rem gần đó.
Sau năm 1975, đường sắt hoạt động trở
lại nhộn nhịp hơn. Một nghề mới từ hậu quả thất nghiệp thời hậu chiến – nghề
bán rong trên tàu bùng nổ. Dân ở Giã gọi là nghề nhảy tàu. Khách đi tàu cần gì,
họ bán cái đó. Một số từ được đổi lại. Ví dụ, người ta không gọi là “bán nước”
mà gọi là “đổi nước”. Tiếng rao “trà đá” có thể xác định là tàu đến đâu. Đến
Giã, tiếng rao sẽ là “trè đé”. Đến xứ Quảng, sẽ là “trồa đốa”…
Là con một thiếu tá, dẫu đã về hưu từ
năm 1973, tôi không được phép tiếp tục học đại học sau 75. Má mua cho tôi một
chiếc ba gác máy. Chiếc ba gác được độ lại bằng cách gác một bộ máy Sachs của
Tây Đức. Máy sang số bằng embrayge. Xe chỉ chở được vài trăm ký.
Xăng dầu thời hậu chiến trở nên khan
hiếm và không bán tự do. Nhưng những chiếc ba gác máy vẫn hoạt động. Nó là
phương tiện vận chuyển cơ động nhất của thị trấn Giã. Nó đi bắt heo. Nó chở
hàng từ các bến xe. Nó chở dầu vượt biên đựng trong các giỏ cần xế trên có rơm
và một mớ hột vịt.
Nhưng xăng lậu bán thiếu gì. Can nhựa
20 lít lưu thông khá lén lút. Ban đầu như vậy. Càng về sau càng không lén lút
gì nữa.
Chiều về, tôi không đưa xe về nhà mà
để xe bắt chuyến bên cây bàng trước nhà ga. Nhà ga được xây lại khang trang
nhưng vẫn giữ mái thềm ga cũ. Lúc xây ga, người ta nói mái bị bom đã chồm tới
trước một khoảng cách nhứt định.
Tiếng còi tàu trong đêm bao giờ cũng
làm tôi trở giấc. Tôi thuộc lòng lịch tàu khách chạy. Nhà ở bên kia đường tàu,
tôi lại nằm ngủ trước thềm. Hy vọng kiếm khách của tôi đặt vào những chuyến tàu
chợ thường chạy ban ngày. Ban đêm tàu Thống Nhất họa hoằn mới có khách xuống.
Nhưng cuộc đời trái tim lý lẽ mạnh hơn lý trí nên tàu Thống Nhất cũng lôi tôi
thức dậy ra ga ngồi chóc mỏ chực như chó chực…
Mùa rau muống, rau trúng mùa. Má tôi
quyết định gánh rau vào bán ở chợ Nha Trang, vì chợ Giã bán không hết. Má nhờ
tôi móc cái gánh rau hai bên toa tàu dành cho khách ngồi bệt bằng hai cái móc sắt.
Tôi phải theo má vào tận ga Nha Trang, tháo gánh rau xuống cho má. Rồi lén gánh
ra ngả Mã Vòng. Đi cọp mà. Xong, từ đó má gánh xuống chợ hoặc bắt xe ngựa từ
Thành xuống chợ. Tôi lại theo tàu chuyến sớm trở về Giã với chiếc ba gác còn lạ
nước lạ cái của mình.
Một buổi xế, tôi bắt chuyến nhứt cho
một tàu chợ. Không có khách. Tàu vừa giựt trớn chuyển bánh thì có tiếng la thất
thanh. “Rớt tàu”. Nhiều tiếng la phụ theo. Tàu dừng bánh lại. Một cô bé chừng
10 tuổi, ốm tong ốm teo rớt xuống tàu. Rổ ổi của em văng tung tóe. Tàu hớt mất
của em một cánh tay và một cẳng chưn. Một người ra vẻ hiểu biết chạy vội ra gọi
xe tôi nhờ chở cô bé xấu số xuống bịnh viện. Người ta ẳm em lên sàn xe ba gác.
Em vẫn còn quan tâm tới rổ ổi: “Rớt ổi của em!” Người ta gởi kèm theo cái cánh tay
và cái chưn của cô đặt bên cạnh cô. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy xuống bịnh viện.
Trên đường tôi không dám nhìn xuống cảnh tượng. Cô bé lịm dần đi. Tới bịnh viện,
người ta khiêng nguyên tấm ván sàn xe đưa cô bé vào phòng cấp cứu.
Tôi nhận lại ván sàn xe. Thở ra một
hơi. Quay xe không nở hỏi gì thêm…
Nhà ga nào cũng toát ra sức biệt ly dữ
dằn. Bà chị Hai kêu ba tôi bằng cậu, cũng biệt ly ở đó một cánh tay. May mà còn
mạng để về nhà.
Nhà ga ở đây còn là nơi nhận những
người già cả quanh đó vào làm việc: ăn xin. Anh Rơi, người bị mất một cánh tay
trong chiến tranh, em ruột bà chị Hai bị mất một cánh tay trong hòa bình, có lần
gặp tôi xuống tàu ở ga Giã, đã quay mặt giấu chút sĩ diện còn lại của anh, kẻ
cùng khổ lúc cuối đời vì mất sức. Anh đang làm nghề ngửa tay trước bá tánh lên
xuống tàu, chúc họ thượng lộ bằng an. Cũng như lời chúc của thầy cả tôi hằng
nghe mỗi chủ nhật trước khi tan lễ chủ nhật.
Trần Công Khanh
304Đen – llttm- sgtc
Chi Lạ Rứa - Nguyễn Thị Hoàng
Chi Lạ Rứa
Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc
Nhìn chi tui – đồ cỏ mọn hoa hèn
Ngó chi tui – đồ đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
Tui ao ước có bao giờ tuyệt đích
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ
Rồi ngó tui, chi lạ rứa: hững hờ
Ghép yêu mến, vô duyên và trơ trẽn
Tui đã tắt nỗi ngại ngùng bẽn lẽn
Bởi vì răng? Ai biết được người hè!
Nhưng mà chiều đã rủ bóng lê thê
Ni với nớ có khi mô mà gần gũi
Chi lạ rứa! Răng cứ làm tui tủi
Tàn nhẫn chi với một đứa thương đau
Cảm tình câm nên không sắc không màu
Và vạn thuở chẳng nên tình luyến ái
Chi lạ rứa? Người cứ làm tui ngại
Biết sông sâu hay cạn giữa tình đời
Bên ni bờ vẫn trong trắng chơi vơi
Mà bên nớ trầm ngâm mô có kể
Tui không muốn khóc chi những giọt lệ
Đọng làn mi ấp ủ mối tâm tình
Bên ni bờ hoa thắm hết tươi xinh
Mà bên nớ huy hoàng và lộng lẫy
Muốn lên thuyền mặc sóng cuồng xô đẩy
Nhưng thân đau nên chẳng dám đánh liều
Đau chi mô! Có lẽ hận cô liêu…
Mà chi lạ rứa hè? Ai hiểu nổi!
Tui không điên, cũng không hề bối rối
Ngó làm chi cho tủi nhục đau thương
Tui biết tui là hoa dại bên đường
Không màu sắc, chi lạ rứa hè, người hí
Tui cũng muốn có một người tri kỷ
Nhưng đường đời như rứa đó, biết mần răng?
Tui muốn kêu, muốn gọi, muốn thưa rằng
Chờ tui với! A, cười chi lạ rứa?
Tui không buồn, răng mắt mờ lệ ứa!
Bởi vì răng tui có hiểu chi mô
Vì lòng tui là mặt nước sông hồ
Chi lạ rứa, bên ni bờ tui khóc…
Nguyễn Thị Hoàng
Những
ngày tàn thu
Một Cuộc Biển Dâu - Sơn Nam
Linh
đinh bèo nước biết về đâu?
Ðậu bến An Giang thấy những rầu,
Bảy Núi mây liền, chim nhíp cánh,
Ba dòng nước chảy, cá vênh râu.
Có rau nội quạnh, dân xanh mặt,
Không trái bần khô, khỉ bạc đầu…
(Cử nhơn Phan Văn Trị)
Lão Bích day mặt qua một bên. Nắng đổ xuống từng
đóm lửa đỏ như mấy cục sắt trong lò rèn mới rút ra, chóa lên rồi bay bổng xa dần,
trở nên phiêu diêu, mát rượi như bầy đom đóm vô hình bay trong đêm. Ðúng ba
ngày rày, lão chỉ uống nước chớ không ăn một hột cơm nào. Hai hôm đầu, lão lấy
cớ lả mệt. Hôm sau, đứa con lão bới cơm đầy chén, lão hứa sẽ ăn khi khỏe người.
Chờ khi nó nằm ngủ trưa, lão đổ cơm trở vào nối, thảy xuống nước vài hột để
nhìn bầy cá linh bu lại giành mồi, phóng mình lên… Giờ phút này, bụng dạ của
lão thơ thới lạ thường, không biết đói là gì. hay là nó đã tê liệt rồi? Nhịn
đói năm ba ngày liên tiếp không phải là một lý do đầy đủ để chết; sức người chịu
dai lắm nếu hãy còn cảm giác biết đói. Ðằng này lão không đói nữa: phân nửa
thân xác của lão, từ ngực trở xuống, dường như đã lìa. Từ ngực trở lên, qua hơi
thở phơn phớt, lão ngỡ chỉ còn lớp da nhăn bọc xương khô. Bịnh lão hoành hành từ
mười năm qua đã giúp lão trút nhẹ lá phổi, duy còn đôi mắt và hai lỗ tai. Nhưng
hai giác quan này đã biến đổi, hư hao quá nhiều. Bây giờ là ngày hay đêm? Ở đây
là biển trần khổ hay là ở trên bồng lại? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường như
có muôn ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt, dịu hiền như ngọc nữ kim
đồng, trong tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn.
Thằng Kim, đứa con lão, quát to:
-Quạ! Quạ đừng!
Lão Bích giựt mình thở phì phào:
-Quạ à? Vậy mà cha tưởng là…
Thằng Kim bò trên xuồng, hươi dầm định đập lũ
qua đang liều lĩnh bu lại mũi xuồng. Lão Bích lắc đầu:
-Nó muốn rỉa xác tao thì cứ rỉa. Coi chừng
chìm xuồng… Rán bơi tới nữa… Con ơi!
Rồi lão nắm tay nó mà kéo lại sát mặt:
-Thấy chòm cây, xóm nhà nào trước mặt không? Hừng
sáng rồi hả?
Thằng Kim hoảng hồn, đoán rằng cha nó đang hấp
hối. Mặt trời sắp lặn. Nó bơi mạnh. Qua lượn sóng to này nó hồi hộp, chưa kịp
nghỉ tay là lượn sóng khác tràn tới. Ðằng xa kia, ẩn hiện trên ngọn sóng ngọn
lúa xanh rì. Từ hồi sáng, mặc dầu nó bơi liên tiếp, cảnh vật chung quanh vẫn y
hệt. Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy mãi về
hướng Tây. Nó thắc mắc: nước ở đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai
thước, mênh mông không bờ bến như biển khơi.
Hồi hôm qua, lão Bích dẫn giải:
-Ðây vùng ruộng sạ thuộc tình Long Xuyên. Hằng
năm, nước lên vài tháng rồi giựt xuống. Ði tắt như vầy hơi cực nhưng không ai
xét giấy thuế thân.
Giờ đây, nó mới hiểu rõ sự thật của tiếng “hơi
cực”. Nhớ lúc đi qua phá Ðại Ngãi để vượt ngang sông dài Hậu Giang, nước sâu,
sông rộng nhưng nó cảm thấy đẽ thở hơn. Sông rộng có giới hạn, bơi non một giờ
là qua khỏi; giữa sông nhiều cù lao nổi lên giúp người đi đường vững tinh thần,
rủi chìm xuồng thì lội vô cù lao. Vùng ruộng sạ này có khác! Bờ Bến ở tận chơn
trời, nước tuy cạn nhưng có thể giết người, nạn nhân dầu lội giỏi, vượt năm bảy
ngàn thước cũng không tìm được một căn nhà sàn, một ngọn tre mà nương tựa.
Mặt trời xuống, ngày một thấp. Và rặng cây ban
nãy biến đâu mất rồi? Nó tự hỏi. Mặt nước xanh tươi, đám ruộng sạ của ai hiện
ra hàng trăm công đất. Lạc vào đó e ngọn lúa vướng vào dầm khó bơi, nó quay xuồng
qua phía tay mặt. Sóng gió đà dịu xuống. Phía trước mũi xuồng, lố nhố những đốm
đen ngòm, chuyển động như giăng ngang kín chân trời.
Lão Bích nói vọng lại, yếu ớt:
-Thấy bờ bến gì chưa?
Nó nghiêng tai nghe tiếp.
-Ba để lại cho con cái áo này… Yếu quá… ba ngồi
dậy cổi áo không được. Con..
Nó trố mắt. Hai chân của cha nó im lìm như
khúc gỗ bỗng nhiên cựa quậy, giãy dụa.
-Sao… sao không cha?
Thằng Kim la rú lên, bò tới. Tay chân ba nó đã
lạnh ngắt, mặt thì xanh đen. Nó khóc không nên tiếng, nước mắt nước mũi cứ tuôn
xuống.
Ðằng xa… xóm nhà hiện ra. Nó rú lên. Nhưng tiếng
hú nghẹn trong cuống họng. Chụp cây dầm, nó quơ lên trời làm dấu hiệu.
… Một chiếc xuống ba lá rẽ nước tiến lại, người
ngồi trên xuống quát lớn:
-Gì vậy? Té xuống ruộng hả?
-Không! Ba tôi chết rồi.
Khách nọ ngồi xuống, rờ vào lão Bích rồi nhìn
thằng Kim:
-Ở đâu tới vậy? Tội quá. Người này là ba của
chú em à?
-Dạ ở cù lao Ông Chưởng…
Khách lẩm bẩm:
-Thì cũng ở trong vòng tỉnh Long Xuyên… Biết
sao bây giờ! Ði đâu mà lỡ đường như vậy? Có bà con với ai gần đây không?
Thằng Kim chắp tay lại:
-Ông giúp dùm tôi. Không ai hết. Không ai hết.
-Ðể coi.
Khách quay lưng, đưa tay ngoắc chiếc xuồng
phía sau. Thằng Kim đã hiểu những lằng đen ở chân trời khi nãy là bầy trâu vô số
kể đang lặn hụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng. Hơi trâu thở khì
khì như cây rừng khi nổi gió. Hàng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lễu nhô trên bộ
mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt những trái ấu khổng lồ.
Khách bảo em bé ở xuống sau:
-Ðừng cho trâu đi theo. Không khéo chìm xuống
người ta bây giờ! Mày đẫn chú này lại chòi ông Hai Tích…
Ðứa bé đáp:
-Rồi ai coi chừng trâu phía sau?
Khách ngẫm nghĩ:
-Vậy thì mày đưa một đỗi, gần tới nhà Hai Tích
thì hú một tiếng cho ổng hay. Rồi trở ra lẹ. Ngoài này tao len trâu chậm chậm
chờ mày…
Rồi day lại thằng Kim:
-Chú em đi với em này lại nhà quen của tôi. Họ
giúp giùm cho.
oOo
Em bé bơi trước. Thằng Kim theo sau, trong dạ
buồn điếng nhưng cũng khuây khỏa được ít nhiều. Nó cúi đầu nhìn: tay chân cha
nó đã rút lên, mặt nghiêng một bên khuất dưới cái nón lá; có lẽ khi nãy ông
khách nọ đã chú ý đậy mặt dùm cho nó.
Ông khách bỗng bơi xuống theo, kêu nó:
-Ngừng lại nghe tôi căn dặn: thằng nhỏ đó sợ
ma lắm. Chiều rồi, đừng cho nó thấy. Chú em lấy cái nóp này của tôi đem về nhà
ông Hai Tích. Không chừng sáng mai tôi về tới. Ðừng buồn. Ông Hai Tích cũng như
tôi…
Hai căn chòi nằm lú trên mặt nước. Khói cơm
bay tỏa cuồn cuộn, tản mác trở về phía mặt trời mọc. Quạ đậu sắp hàng trên nóc
nhà, há mỏ kêu rồi bay bổng vòng quanh xuồng. Em bé rú lên:
-Ông Hai ơi! Có khách của chú Tư Lập nè!
Rồi nó quày quả trở lại. Thằng Kim nói:
-Cám ơn.
Ðứa bé nhìn lại trong xuồng thằng Kim:
-Sao ông này nằm hoài… Kêu ổng thức dậy, tới bến
rồi!
Thằng Kim méo mặt, nước mắt lại tuôn xuống.
Như đoán được trách nhiệm giao phó nãy giờ, đứa bé rùng mình, la lên một tiếng
“trời” rồi bơi đi tuốt.
Nghe thằng Kim thuật lại hoàn cảnh của cha nó,
ông Hai Tích thở dài, gọi bà Hai nấu cơm thêm để thằng Kim cùng ăn. Thằng Kim
nuốt không vô; hồi xế trưa đến giờ tâm trí nó bận rộn vì một câu hỏi mà nó
không dám thốt ra: “Chôn ba nó ở đâu? Làm sao mà chôn?”. Bà Hai gọi ông Hai ra
phiá sau. Hai vợ chồng nói qua lại thì thào. Ông Hai trở ra:
-Ý của cháu như thế nào? Miệt này, mùa này ai
rủi ro thì cũng vậy. Bác coi cháu như người nhà nên mới nói thiệt. Phải chôn gấp
nội chiều nay, lòng vòng chờ sáng mai không lợi ích gì.
Thằng Kim hỏi:
-Thưa bác, chôn ở đâu?
Ðoán được vẻ lo âu sợ hãi ấy, ông Hai Tích ngập
ngừng:
-Nói chôn cho đúng tục lệ chớ đất ở đâu mà
chôn? Tứ bề là nước. Có hai cách: một là xóc cây tréo ở giữa đồng rồi treo lên
mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất công lắm, diều
quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây dằn đá mà neo dưới đáy ruộng…
Thằng Kim đập đầu xuống sàn nhà, hai tay bứt
tóc:
-Trời ơi, phải biết vậy, ba tôi đi tới xứ này
làm chi…
Bà Hai Tích rưng rưng nước mắt:
-Cháu đừng khóc. Trời định vậy. Ở đây ai cũng
vậy; người có của, ai tới xứ này? Trách cha, trách mẹ, trách trời là thêm tội.
Cháu thắp nhang đi, lạy không được thì xá ba xá. Bác ra tay dùm. Trời chạng vạng,
lát nữa tối tăm, khó lắm.
Bước ra sau hè để coi bóng mặt trời rồi ông
Hai Tích lật đật trở lại phía trước, tay cầm chai rượu. Ông dở cái nón che mặt
lão Bích, phun rượu kéo tay chân xác chết ra cho ngay ngắn.
Hai chiếc nóp gói kín xác kẻ bạc mạng. Bà Hai
vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống. Sau rốt, hai ông bà lum khum
khiêng xuống suồng cái thớt trên của cây cối xay lúa cũ.
Xuồng rời khỏi nhà, mỗi lúc một xa. Thằng Kim
khóc đòi đi theo… để tự vận. Bà Hai Tích nói:
-Lớn rồi, cháu không phải là con nít nữa mà
đòi liều mạng dại dột như vậy. Coi như là xong một cái tai nạn…
Thỉnh thoảng, ông Hai Tích day mặt lại, khoát
tay như ra dấu bảo người trong nhà đừng trông theo. Biết cử chỉ của mình vô hiệu
quả, ông cho xuồng tẽ qua một bên hông trong nhà không ai nom thấy cảnh tượng
đau xót cuối cùng. Ðôi mắt thằng Kim mở rộng, trừng trừng. Cả mặt nước giờ đây
hiển hiện như con ác thú khổng lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác cha nó rồi ngậm
miệng lại, giận dữ vì chưa no. Nhưng chỉ giây phút thôi! Mặt nước trở lại yên tịnh,
phải chờ khi da trời tỏ rạng sao Hôm, nắng vàng chìm xuống, cơn gió Nam mới nổi
lên lần nữa, triền miên đến khi gà gáy văng vẳng.
Ngay bàn thờ giữa, khói hương cháy đỏ. Ý của
ông Hai và bà Hai là cầu siêu cho vong hồn người bạc mạng. Phần thằng Kim thì
sau khi uống trọn gáo nước lạnh, nó nằm ngả trên sàn, mệt lịm, ngủ tự hồi nào.
Nó mớ. Nó trở mình đấm tay, đạp chân nghe rầm rầm. Ông Hai, bà Hai lấy chiếc
chiếu đắp cho nó.
Bà Hai nói:
-Tội nghiệp. thân nó đơn chiếc mà gặp cảnh
này…
Ông Hai cau mày:
-Biết vậy thì tại sao hối nãy bà tiếc cái cối
xay lúa? Bộ bà muốn cho ba nó nổi sình lềnh trên mặt nước hay sao?
-Ðừng nói nữa ông ơi. Tới mùa nước giựt, bề
nào ông cũng rán nhớ hốt xương, chôn cất kỹ lưỡng dùm nó. Tôi khổ lắm…
Ông Hai hớp miếng rượu:
-Không cần… Ðất ruộng này rải rác, Lũ khũ…
xương người ta với xương trâu, thứ trâu “len” đi xa bị bịnh mà chết dọc đường.
Tới mùa cày ruộng, năm nào cũng vậy, tôi gặp xương đó hoài.
-Rồi ông làm sao?
-Thì cày đất lấp lại cho lúa sạ mọc lên. Mình
cứ tưởng đó là xương của người hồi đời Bàn Cổ… Chớ nhìn nhận rằng nó còn tươi
trẻ hơn bộ xương mà mình đang mang đây thì… mình phải suy nghĩ cho phận làm người
của mình quá! Mấy bữa đó, tôi buồn, về nhà khảo tiền của bà để mua rượu uống,
bà không hiểu nên rầy tôi… Bà nhớ không?
Thằng Kim lại trở mình, đập tay xuống sàn nhà…
Sơn
Nam
(Hương Rừng Cà Mau)
Từ E- Book