RỔ ỔI Ở GA GIÃ
Từ khi tôi biết cái ga Giã, nó chỉ
còn trơ trọi cái mái đúc hình chữ “L” ngược gồm năm nhịp cột đà. Thổ dân người
ta nói trong chiến tranh vào khoảng những năm 1950 máy bay ném bom sập hết nhà
ga chỉ còn cái mái hiên quay ra phía đường tàu.
Trần Công Khanh
Ga Giã xây dựng vào khoảng những năm
1930. Ngày 2.9.1936, người Pháp làm lễ khánh thành ga Nha Trang, đồng thời
tổ chức lắp thanh ray khớp nối cuối cùng ở ga Hảo Sơn, Phú Yên và làm lễ thông
đường sắt trên toàn cõi Đông Dương, từ Hà Nội vào Sài Gòn sang Nam Vang.
Sau 1954, Việt Nam chia thành hai nước
lấy giới tuyến là sông Bến Hải. Con sông này trùng tên với thằng em kề cuả tôi.
Chiến tranh xìu xìu ển ển được một
chút sau 1954. Ga Giã vẫn ôm tật nguyền dai dẳng. Ông Ngô Đình Diệm chủ trương
giữ chiến tranh ở cấp tiểu đội, trung đội, để còn phát triển kinh tế. Ông đồng
minh cỡ cố nội người ta tên là Hoa Kỳ không chịu và đạp đổ chế độ ông Diệm. Ông
đồng minh bắt đầu can thiệp sâu, đẩy cuộc chiến lên cao.
Nhà ga nào cũng toát đẫm mùi vị ly biệt.
Trong những chứng kiến ly biệt ấy, nó còn chứng kiến một sự tật nguyền 90% của
tự thân nó. Một chứng kiến khác thực rùng rợn hơn cả.
Một buổi trưa nắng, hai cậu nhỏ chăn
bò tinh nghịch, rủ nhau leo lên nóc nhà ga. Chúng nó đi lùa bò ra đồng bữa trước
lượm được một đầu đạn M72, về dấu sau vườn, trong cái nọc rơm chỉ có tụi nó
ngày ngày kéo rơm cho bò ăn. Bữa nay lùa bò nằm nhơi cỏ dưới cây bàng trước ga.
Chúng lén giấc trưa có vẻ như cả thị trấn đã ngủ trưa, đem cái đầu đạn lên mái
hiên thềm ga. Cu Tí và Cu Đỏ bắt đầu cưa cái đầu đạn…
Một tiếng nổ rung rinh mặt đất như
hai từ “cách mạng” từng nổ. Mái hiên sân ga rung rinh. Thịt xương hai đứa bé
văng tứ tung. Người nhà phải đi lượm lại từng miếng vụn.
Trước 1975 có một ngạch lính được nhiều
người chọn đi. Đó là lính bảo vệ thiết lộ. Hai ông anh con ông bác sáu của tôi
nhờ ông chú – ba của tôi – là sĩ quan ở Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế chạy cho đầu
quân ở đơn vị bảo vệ thiết lộ. Đường sắt hay bị giựt mìn, nhưng nghề lính này vẫn
an toàn hơn nghề lính nào khác.
Tôi và Hải cùng theo cha, thiếu tá
Ánh hôm ấy đi xe lửa về Giã thăm ông bà nội. Xe lửa lúc này chạy luôn luôn được
gắn phía trước đầu máy ba toa trần, không có thùng. Sau đầu máy ma nớp thêm ba
toa chở đá giăm trống. Xe vừa sắp tới ga Hòa Huỳnh, bỗng nghe một tiếng nổ lớn.
Hành khách trên tàu nhốn nháo tràn xuống cánh đồng, chạy về hướng Quốc lộ 1. Ba
tôi bình tĩnh dắt hai đứa con ra đường Quốc lộ để đón xe về lại Đồng Đế. Ông
không phải là lính quân trường mà trước đó từ Sư đoàn 7 bộ binh Việt Nam Công
Hòa thuyên chuyển về như một đặc ân cho người lính xa nhà đã nhiều năm, được cơ
hội gần nhà. Ông suýt chết ở trận Ấp Bắc – một cái ấp nằm phía bắc đi lên báo
chí Mỹ thành tên riêng. Cũng giống như Chí Hòa bị người Pháp ghi lại thành Kỳ
Hòa vì cho răng chữ “h” trong từ “chí” là “h” câm (h muet theo tiếng Pháp).
Tôi ngoái lại cánh đồng người nhìn về
phía đầu máy xe lửa. Ba toa xe trống chở đá giăm chồng lên nhau. Số người chết
trong vụ giựt mìn đó là ba đứa bán cà rem. Tụi nó chui lên toa trống đi cọp. Tới
ga nào ngừng lâu thì xuống bán cà rem cho khách. Dân bán cà rem với bò xài cùng
cái chuông lắc. Bò để khỏi bị người chủ lạc. Cà rem để tạo sự chú ý. Chỉ cần
nghe tiếng chuông là biết có bán cà rem gần đó.
Sau năm 1975, đường sắt hoạt động trở
lại nhộn nhịp hơn. Một nghề mới từ hậu quả thất nghiệp thời hậu chiến – nghề
bán rong trên tàu bùng nổ. Dân ở Giã gọi là nghề nhảy tàu. Khách đi tàu cần gì,
họ bán cái đó. Một số từ được đổi lại. Ví dụ, người ta không gọi là “bán nước”
mà gọi là “đổi nước”. Tiếng rao “trà đá” có thể xác định là tàu đến đâu. Đến
Giã, tiếng rao sẽ là “trè đé”. Đến xứ Quảng, sẽ là “trồa đốa”…
Là con một thiếu tá, dẫu đã về hưu từ
năm 1973, tôi không được phép tiếp tục học đại học sau 75. Má mua cho tôi một
chiếc ba gác máy. Chiếc ba gác được độ lại bằng cách gác một bộ máy Sachs của
Tây Đức. Máy sang số bằng embrayge. Xe chỉ chở được vài trăm ký.
Xăng dầu thời hậu chiến trở nên khan
hiếm và không bán tự do. Nhưng những chiếc ba gác máy vẫn hoạt động. Nó là
phương tiện vận chuyển cơ động nhất của thị trấn Giã. Nó đi bắt heo. Nó chở
hàng từ các bến xe. Nó chở dầu vượt biên đựng trong các giỏ cần xế trên có rơm
và một mớ hột vịt.
Nhưng xăng lậu bán thiếu gì. Can nhựa
20 lít lưu thông khá lén lút. Ban đầu như vậy. Càng về sau càng không lén lút
gì nữa.
Chiều về, tôi không đưa xe về nhà mà
để xe bắt chuyến bên cây bàng trước nhà ga. Nhà ga được xây lại khang trang
nhưng vẫn giữ mái thềm ga cũ. Lúc xây ga, người ta nói mái bị bom đã chồm tới
trước một khoảng cách nhứt định.
Tiếng còi tàu trong đêm bao giờ cũng
làm tôi trở giấc. Tôi thuộc lòng lịch tàu khách chạy. Nhà ở bên kia đường tàu,
tôi lại nằm ngủ trước thềm. Hy vọng kiếm khách của tôi đặt vào những chuyến tàu
chợ thường chạy ban ngày. Ban đêm tàu Thống Nhất họa hoằn mới có khách xuống.
Nhưng cuộc đời trái tim lý lẽ mạnh hơn lý trí nên tàu Thống Nhất cũng lôi tôi
thức dậy ra ga ngồi chóc mỏ chực như chó chực…
Mùa rau muống, rau trúng mùa. Má tôi
quyết định gánh rau vào bán ở chợ Nha Trang, vì chợ Giã bán không hết. Má nhờ
tôi móc cái gánh rau hai bên toa tàu dành cho khách ngồi bệt bằng hai cái móc sắt.
Tôi phải theo má vào tận ga Nha Trang, tháo gánh rau xuống cho má. Rồi lén gánh
ra ngả Mã Vòng. Đi cọp mà. Xong, từ đó má gánh xuống chợ hoặc bắt xe ngựa từ
Thành xuống chợ. Tôi lại theo tàu chuyến sớm trở về Giã với chiếc ba gác còn lạ
nước lạ cái của mình.
Một buổi xế, tôi bắt chuyến nhứt cho
một tàu chợ. Không có khách. Tàu vừa giựt trớn chuyển bánh thì có tiếng la thất
thanh. “Rớt tàu”. Nhiều tiếng la phụ theo. Tàu dừng bánh lại. Một cô bé chừng
10 tuổi, ốm tong ốm teo rớt xuống tàu. Rổ ổi của em văng tung tóe. Tàu hớt mất
của em một cánh tay và một cẳng chưn. Một người ra vẻ hiểu biết chạy vội ra gọi
xe tôi nhờ chở cô bé xấu số xuống bịnh viện. Người ta ẳm em lên sàn xe ba gác.
Em vẫn còn quan tâm tới rổ ổi: “Rớt ổi của em!” Người ta gởi kèm theo cái cánh tay
và cái chưn của cô đặt bên cạnh cô. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy xuống bịnh viện.
Trên đường tôi không dám nhìn xuống cảnh tượng. Cô bé lịm dần đi. Tới bịnh viện,
người ta khiêng nguyên tấm ván sàn xe đưa cô bé vào phòng cấp cứu.
Tôi nhận lại ván sàn xe. Thở ra một
hơi. Quay xe không nở hỏi gì thêm…
Nhà ga nào cũng toát ra sức biệt ly dữ
dằn. Bà chị Hai kêu ba tôi bằng cậu, cũng biệt ly ở đó một cánh tay. May mà còn
mạng để về nhà.
Nhà ga ở đây còn là nơi nhận những
người già cả quanh đó vào làm việc: ăn xin. Anh Rơi, người bị mất một cánh tay
trong chiến tranh, em ruột bà chị Hai bị mất một cánh tay trong hòa bình, có lần
gặp tôi xuống tàu ở ga Giã, đã quay mặt giấu chút sĩ diện còn lại của anh, kẻ
cùng khổ lúc cuối đời vì mất sức. Anh đang làm nghề ngửa tay trước bá tánh lên
xuống tàu, chúc họ thượng lộ bằng an. Cũng như lời chúc của thầy cả tôi hằng
nghe mỗi chủ nhật trước khi tan lễ chủ nhật.
Trần Công Khanh
304Đen – llttm- sgtc
No comments:
Post a Comment