Cuốn sách Đức:
"A reporter's love for a wounded people" của tác giả Uwe
Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết
"foreword" và endorsements.
Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu
đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt
Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại
với quê hương khốn khổ của chúng ta.
Đoạn kết
Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy
vọng
Hơn
40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế
giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều
người sẽ gọi đó là ngày "giải phóng." Ga xe lửa Huế, nơi một
đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi
buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi
lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa,
tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe
lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích
bên ngoài. Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi
Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách
không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất. Chẳng lẽ nào tôi lại không
mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống
và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược
xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc
độ lên tới 200 dặm một giờ?
Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến
tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe
lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây
thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt. Nước Đức hoàn thành sự thống
nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức
đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng
ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các
vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut
Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp
đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong
khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một
ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải
trốn chạy.
Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả
trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng
sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc "giải phóng." Điều này
đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai? Có phải miền Nam đã được "giải phóng" khỏi sự áp đặt
một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi
phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát
biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí? Một cái thứ giải
phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc
hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền
Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng
miền Bắc và làm từ 200.000 đến
400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?
Có phải là hành động giải phóng không
khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài
Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng
cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các
trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn
người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do
hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc
tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?
Từ giữa những năm 1960, những tay bịa
đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây
thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung
đột là một cuộc "chiến tranh nhân dân." Cũng đúng thôi nếu chấp
nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng
theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì
"chiến tranh nhân dân" phải được hiểu là cuộc "chiến tranh
của nhân dân." Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu
người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000
thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong
cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường
Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn
200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa
Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến
tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả
về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu
hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt
quân sự có nghĩa là "vắng mặt không phép," câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay
không? Nếu có, tại sao gần một
triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm
1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi
hướng ngược lại?
Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt
động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ
tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ
và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có
tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm
1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách
thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập
chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.
Với cương vị một người công dân Đức, tôi
không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là "I
have no dog in this fight" (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn
lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách "Lời nguyện của nhà
báo", tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã
từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi
hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui
vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp
đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các
chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản
duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ
với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm
tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối
mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị
cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với
trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn
đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không
còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng
kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi
tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.
Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất
thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một
cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ
của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể
thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng
sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng
kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện
chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm
1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927),
Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).
Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả
đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã
tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh
của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật.
Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi
Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm
xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng
như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài
Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không
có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh
bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân
danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế
thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô
tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ? Với tư
cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao
các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại
giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà
"tội ác" duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một
ban nhạc hòa tấu? Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện
Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị
giam cầm tại Hà Nội? Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về
những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã
được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc
Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì
đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom
nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con
đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika
Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường
xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô
diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó
và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới
ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ. Không có ai sinh ra
là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng
tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có
trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay
nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là
ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc
đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi
hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám
ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời
gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ
thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một
hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ
bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình
New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.
Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn
quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa
Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi
Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris:
1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm
Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước
mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc
đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: "Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!"
Charton: "Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã
đánh bại chúng tôi... cùng sự hỗ trợ các
ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố."
Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được
ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự
thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang
bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận
thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ
cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng.
Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến
điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị
ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt
Nam là: khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó
sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà
đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống,
sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của
những thanh niên đã được đưa ra mặt trận. Điều này đã xẩy ra trong trường
hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu
trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng
chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu
chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch
sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn
luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch
sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những
căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi
không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù
có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của
dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và
các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể
sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ
chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972,
nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi
còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?
|
No comments:
Post a Comment