Tôi Làm Tôi Bỏ Đạo
Tôi sẽ khó trả
lời cho đúng nếu có ai hỏi tôi theo đạo gì? Nhà nghèo, theo cha mẹ tha
phương cầu thực, tôi về sống tại một cái ấp nhỏ nằm bên cạnh tình lộ đi lên Tây
Ninh. Nói tới Tây Ninh chắc không ai xa lạ gì Tòa Thánh Cao đài ở Long Hoa với
cái chợ tươm tất khang trang, nằm chính giữa những con đường bụi đỏ được làm
nên theo hình bát quái đồ. Trong nhà tôi có bàn thờ Phật nhưng ba mẹ tôi lại
thờ cúng theo tập tục đạo Cao Đài. Hai ông bà thường dắt tôi lên tỉnh
thăm Tòa Thánh hàng năm khi tôi còn học tiểu học trường làng. Tôi đã sống và
quen với mùi nhang khói đó. Phía sau ấp chợ, đi ra khỏi cuối bờ ấp chiến lược
một khoảng khá xa là đến bờ sông Vàm cỏ Đông. Ở đó, bên cạnh bến đò ngang với
cái cầu nhỏ như cầu khỉ, thú thật tôi chưa thấy ai đi đò lần nào, là ngôi chùa
nhỏ cũ rong rêu, xiêu vẹo nằm dấu mình đằng sau một cây đa lớn trên mô đất cao.
Xung quanh chùa là mấy miếng đất khô năm nào cũng chỉ trống bắp, chưa thấy
trồng lúa bao giờ. Lúc đó, năm tôi học lớp nhì lớp nhất, tình hình còn bình yên
lắm. Sau giờ học bọn tôi tụ tập, đá banh bắn bi, chọi đáo trên miếng đất sát
cạnh cửa sau chùa cho đến khi mệt đừ thì chạy vào hậu liêu tìm ông sư già xin
nước uống.
Trong chùa, tôi không thấy ai khác
hơn là ông sư già ốm người nhưng trông còn khỏe, ngày nào cũng thấy ông mặc bộ
đồ màu vàng như bông vạn thọ tàn với vài chỗ vá qua vá lại. Những ngày Lập
Đông, sáng sớm trên đường đến trường trong màn sương mơ mờ đục, tôi thường nghĩ
tới ông, không biết giờ ông có lạnh không. Tôi thích nhất là được ngồi bên cạnh
ông trong chánh điện, trước tượng Phật lớn, nghe ông hỏi chuyện học hành,
chuyện cha mẹ anh em. Tôi thích cái xâu chuỗi đen bóng như hột trái nhản mà ông
lần từng hột trong tay. Tôi nhìn nó say mê không biết chán. Ông thường bảo tôi
nghe lời cha mẹ và chấp tay xá, xin đức Phật ban phước lành cho con học hành
ngoan giỏi. Ông hiền lắm, tôi không biết tên ông mà chỉ gọi là “Ông Sư Sáu”
như dân làng thường gọi.
Ba mẹ thấy tôi thường đi chơi dưới
chùa, chớ không tụ ba tụ năm đánh đáo đánh bài như đám con nhà giàu nhà gạch
đầu chợ nên mừng ra mặt. Đi đâu ông cũng đi bộ, trừ khi phải đón xe lam về chợ
quận nhưng ít khi thấy lắm. Ông cũng có tài hốt thuốc Nam cho nên trong làng
trong ấp, ai đau ai yếu bệnh hoạn gì, hơi hơi cũng đều gọi ông đến, ông đến
ngay dù ban đêm ban hôm. Một năm, chùa có ngày vui nhất là ngày cúng Rằm Tháng
Bảy xá tội vong nhân vì hôm đó, dân làng mang bánh trái xôi chè xuống chùa cúng
vái. Chuông chùa cũng đổ nhiều lần hơn ngày thường. Tôi không biết ông có ăn
hết những thứ đó hay không nhưng hai ba ngày sau tôi vẫn còn được ông cho mấy
cái bánh bò đỏ rực. Tôi không biết đức Phật ra sao nhưng qua hình ảnh Ông Sư
Sáu, trong trí óc non nớt của mình lúc bấy giờ tôi tin rằng đức Phật hiền và
tốt bụng lắm.
Giặc giã nổi lên
dần từ ngày tôi thi đậu vào đệ thất trường công lập tỉnh. Súng bắt đầu nổ và có
lần nhà trong ấp bị cháy. Ba mẹ tôi bảo là những người phía bên kia, thường về
tấn công làng vào ban đêm là quân du kích Việt cộng. Tôi chẳng biết người bên
kia là ai, họ làm gì nhưng tôi thường thấy mấy chú bác nghĩa quân, đêm nào cũng
mang súng, đi canh giữ đường này ngỏ kia thấy tội nghiệp. Từ ngày lên tỉnh học,
mỗi lần cuối tuần về thăm nhà là lần nào tôi cũng xuống chùa thăm Ông Sư Sáu
cho được. Thường thì vào buổi trưa thay vì chiều tối như trước vì chùa nằm
ngoài vòng đai ấp chiến lược, mà ngoài này thì không còn mấy an ninh như xưa.
Ông Sư Sáu giờ cũng vậy, cũng ốm yếu, cũng bộ đồ màu vàng bốn mùa mưa nắng và
cũng chén cơm nước tương rau muống luộc. Tôi kể cho ông nghe chuyện học chuyện
trường, chuyện bạn bè phố chợ ngựa xe. Ông không quên vò đầu tôi khen ngoan và
khuyên cố mà ráng học. Mấy trái bắp khô treo trên sàn ngang hậu liêu, hình như
cũng còn đủ như trước kia. Như vậy là chắc ông ăn ít lắm. Rồi ngày tháng đi
qua, nước sông mỗi ngày cứ hai lần nước ròng nước lớn, tôi mang cái hình ảnh
Ông Sư Sáu hiền như đức Phật đó, theo mình trong kiếp đời ở trọ trên chợ tỉnh.
Tôi theo thằng bạn thân vào gia đình Phật tử của ngôi chùa lớn trên đường Trần
Hưng Đạo. Mỗi chiều sinh hoạt, nhìn ngôi chùa lớn, đèn điện sáng choang, nền
gạch bóng láng bao nhiêu, tôi lại nhớ lại thương Ông Sư Sáu già quê mình bấy
nhiêu.
Gần giữa năm đệ thất, trước ngày nghỉ
Tết mấy hôm, về lại nhà, ba mẹ cho biết là Ông Sư Sáu đã chết. Tôi sững sờ chết
trân khóc ngất. Ba me tôi dẩn tôi xuống chùa, cái chùa nhỏ đã sụp gần hết cho
tới hậu liêu nơi ông thường nằm ngủ. Cây đa ngó ra sông cũng ngã rụi một phần.
Tôi theo ba mẹ đến thắp nhang trước mộ ông, cái mộ còn thơm mùi đất mới. Theo
lời ba mẹ tôi, đêm đó, quân du kích Việt cộng từ phía bên kia mật khu Bời Lời
vượt sông sang tấn cổng trụ sở xã rồi đốt cháy chợ làng. Họ bắt vài anh chị lớn
đi theo. Lính nghĩa quân và địa phương quân trong đồn lớn phản công, đánh bật
ra khỏi chợ và đuổi họ xuống tận chùa. Quân Việt Cộng đã bắn mọt-chê và súng
máy tới tấp lên chùa trước khi rút qua sông. Chùa sập và lửa cháy lớn quá, mấy
người lính cùng dân làng xung quanh dập tắt được, thì không còn kịp cứu ông nữa
rồi. Cả làng phụ nhau an táng ông ngay hôm sau. Làng đã không còn tiếng chuông
chùa kề từ đêm hôm đó và cũng từ đó, từ ngày Ông Sư Sáu hiền như Phật mất đi,
tôi bắt đầu thù ghét những người phía bên kia, những người mà dân làng gọi là
du kích Việt Cộng cho đến bây giờ.
Đất nước tôi
ngổn ngang trăm mối, chiến cuộc tràn lan khắp làng khắp xã. Tôi may mắn
đứng bên lề vận nước, tiếp tục học hành vì là con một trong gia đình, trong khi
bạn bè đã nhập cuộc vào lính, chiến đấu quyết bảo vệ cho được quê hương Miền
Nam. Có nhiều người đã nằm xuống khi tuổi đời chưa quá tuổi hai mươi. Trong
những năm tháng này, thử đếm lại đầu ngón tay, có biết bao nhiêu chuyện xảy ra
từ phía những người tu hành theo đạo Phật. Phật giáo xuống đường, sư sãi mang
bàn thờ ra đường, biến động Miền Trung, tự thiêu vì đạo pháp, phía Ấn Quang gậy
gộc gây hấn đánh nhau với phía Viện Hóa Đạo... Tên tuổi Thích Quảng Đức, Thích
Trí Quang, Thích Tâm Châu, Ni sư Huỳnh Liên, Hòa thượng Tịnh Khiết, Trí Độ,
Nhất Hạnh và còn nhiều nữa nổi như cồn, báo chí đăng hình trên trang đầu ngày
một, kể cả báo chí phương Tây. Trong lúc tình hình miền Nam rối bời trăm mối,
chánh quyền lo chống đỡ mọi bề, từ thù trong giặc ngoài thì những người này,
những ông cao tăng này chẳng những không ra tay tế độ, cứu giúp chúng sinh bằng
cách phụ đỡ chống giữ quê hương, mà còn cùng hùa nhau tranh quyền tranh lợi xé
tan miền Nam thân yêu ra trăm mảnh. Cái hình ảnh Ông Sư Sáu, hiền như đức Phật
mà tôi mang theo đời mình làm tôi chán ngấy và bất bình ra mặt nhưng chưa đến
nổi thù ghét như tôi đã thù quân du kích Việt cộng của xã ngày đó. Miền Nam Tự
Do yêu mến của tôi đã thật sự mất vào tay Cộng sản Bắc quân năm 1975. Tôi cùng
gia đình bồng bế nhau vượt biển. Tôi vẫn mang hình ảnh Ông Sư Sáu theo mình từ
ngày bỏ nước chạy thoát bọn cộng sản ra đi và tôi vẫn xem mình là người theo
đạo Phật nếu có ai đó hỏi.
Giờ thì
chắc không ai còn lạ gì chuyện xấu xa, chuyện nhơ bẩn của những ông thầy,
ông đại đức ông thượng tọa này kia ở nước ngoài từ Mỹ, Âu châu sang đến Úc châu
vốn đăng hàng ngày trên báo chí người Việt từ báo giấy hay báo mạng điện tử của
người Việt hải ngoại. Tên mấy cao tăng này, ai nấy đọc riết rồi cũng nhớ rành
rành như nhớ lời của những bài hát của Trần Thiện Thanh hay Lam Phương. Hành
động, mưu đồ tiếp tay kẻ thù cộng sản cướp đoạt quê hương không phải vì Phật
dạy mà chỉ vì cái “mộng bá đồ vương thiếu lâm trường hận” của mấy ông cao tăng
đã được phanh phui sáng rõ ra đó. Trí Quang đã làm gì và Nhất Hạnh ra sao,
người ta không cần phải đi tìm bằng chứng ở đâu cho xa xôi. Hồi ký bút ký đủ
loại thượng vàng hạ cám đều có cùng chung kết luận về họ. Đọc “giặc thầy chùa”
của Đặng văn Nhâm sẽ ớn tóc gáy kêu trời, hỡi ơi đức Phật của tôi đâu có làm gì
nên tội. Cho dù không có gì quả quyết là Đặng văn Nhâm nói đúng một trăm phần
trăm, nhưng những chuyện có thật xảy ra tại hải ngoại, cho người ta tạm đồng ý
là sách ông viết, theo xác xuất sai biệt khách quan, thì theo tôi chắc cũng có
được mươi phần trăm là thật. Chưa thấy có bài viết nào đúng nghĩa phản đối kiểu
ăn nói hàm hồ của Đặng văn Nhâm từ những cao tăng được nêu tên, tôi hy vọng có
thể vì họ đã tu thành chánh quả cho nên chấp tay tha thứ phán đọc hai chữ
“thiện tai.”
Nói về tà dâm, một trong những giới
cấm của người tu hành thì cũng đã có bao nhiêu vị đã trở thành dâm tăng, xin
cho tôi miễn nhắc tên họ. Còn tham lam thì cứ hỏi thật lòng mình đi, hình như
ông thầy nào cũng chạy đôn chạy đáo xây chùa dựng miếu phải lớn hơn chùa ông
khác. Tôi không biết mấy vị này cần nhiều tiền để làm gì vì sổ "băng"
chùa nào cũng có con số nhiều hơn bốn năm số không cuối. Nếu kể cho trọn thì
không bút mực nào viết cho hết. Hình ảnh một ông thượng tọa vào tiệm cho thuê
mướn băng hình hỏi phim tình dục chút chút, một ông đại đức chủ chùa chỉ lo
chăm chú chuyện tiền ra tiền vô, một bà sư cô lái xe hơi chạy ngang chạy dọc
gom tiền hụi đầu trên xóm dưới, một ông sư khác lén ăn thịt gà sau hậu liêu và
nhiều cái nữa so với hình ảnh Ông Sư Sáu già của tôi nghèo khó bữa đói bữa no
mà tôi mang theo trên đường tha phương đã làm tôi không còn mấy tin vào đạo
pháp nữa. Tôi khi dễ, tôi khinh rẻ bọn này, bọn đội lốt thầy tu lấy đời làm
đạo. Bên cạnh đó, tôi cũng khinh khi bọn cận thận bao quanh, thất học hay trí
thức, gọi dạ bảo vâng hầu kiếm chút bổng lộc, rồi kéo bè kéo lũ chúc cung tận
tụy phá nát đạo hạnh, những người đã cố tình đi sai và làm sai lời dạy cao
siêu của đức Phật và triết lý quý giá tột cùng của đạo Phật, vốn đã tế độ và
cứu rỗi muôn vạn chúng sinh trong suốt mấy ngàn năm qua.
Đối với tôi, thầy tu nào, thứ cấp
nào, trước đây đã tiếp tay, góp sức, nối giáo cho giặc cộng sản chiếm miền Nam,
dù trực tiếp hay gián tiếp, tôi đều coi họ là kẻ thù. Là kẻ thù cho nên tôi
không cần phải kính trọng dù có mặc bao nhiêu lớp cà sa vàng nâu thẳng nếp. Tu
hành, là tăng sư, làm sao không biết rõ cái gì là “xân xi hĩ nộ ái ố, lục dục
thất tình”, thế mà bọn này “xân xi hĩ nộ ái ố” gấp trăm lần người phàm phu tục
tử. Ông nào cũng có hai chữ ham muốn to tướng trên đầu, là đại đức muốn thành
thượng tọa, là thượng tọa thì muốn thành hòa thượng, rồi thì phải là chủ tịch
này chủ tịch kia. Không có chùa thì muốn chùa, có một thì muốn hai, có nhỏ thì
muốn lớn. Tôi chán ngấy khi trước mặt thấy họ, nếu tôi căm hận cộng sản bao
nhiêu thì tôi khinh rẻ bọn tăng sư này bấy nhiêu.
Từ đó, tôi tự
thấy mình không còn đủ niềm tin với đạo pháp và tự thấy mình không thể nào
gọi kẻ bị mình khinh bỉ là thầy là tăng được nữa, cho nên sau lần giỗ cuối cùng
của Ông Sư Sáu già, với chén cơm trắng và mấy miếng chao mặn trong cái mờ mờ
của khói nhang giống như màn sương sớm, mờ mờ trên đường từ chợ xã xuống chùa
Bến Đình của mấy mươi năm trước đây, tôi cầu xin đức Phật từ bi tha thứ
cho tôi được làm tôi bỏ đạo nhưng cho phép tôi được giữ mãi hình ảnh Ngài trong
lòng và những lời dạy bảo của Ngài trong tâm cho hết đời này và ở tận kiếp
sau.
Thuyên Huy
No comments:
Post a Comment