Tiếng lốc cốc gõ vào ký ức
Sáng sớm, người Sài
Gòn xưa nằm trong nhà đã nghe tiếng xe và vó ngựa lóc cóc.
Xe thổ mộ chạy lên Gò
Vấp chở hàng bông về Chợ Lớn. Từ lộ trình lên Gò Vấp, nhiều xe còn ghé Chợ Lớn
tranh thủ đón thêm khách. Thông thường xe tập trung tại bến xe ngựa trên đường
Mã Lộ (Q.1) hay ghé đậu bến xe ngựa ở chợ Bến Thành.
Thùng xe thổ mộ dài
1,18 m, cao 1 m, ngang khoảng 0,8 m bằng gỗ mít chở khoảng 6 người, ngồi co
chân đối mặt “tập thể” trên tấm chiếu bạc lót trên sàn xe. Thùng xe được vít
cứng trên một cái nhíp bốn lá hình ô van để tạo sự đàn hồi, giữ thăng bằng cho
thùng khi rong ruổi trên đường. Phía đầu thùng xe hai bên là cặp tai đèn. Hai
cái vè chở hàng (porte bagage) bằng gỗ bề ngang hơn tấc tay, uốn lượn như dợn
sóng. 24 cây căm xe bằng gỗ giáng hương to tổ chảng. Phía ngoài vành bánh xe
được bọc bởi vỏ xe hơi nên xe ngựa chạy cũng khá là êm.
Giày dép của khách
thì máng ở hai cọc sắt phía sau xe ở góc thùng. Một người ngồi ngay chỗ bàn đạp
dành cho khách lên xuống. Dù chật hẹp như vậy nhưng không ai cảm thấy ngột ngạt
vì bên hông thùng xe để hở cho gió lùa vào. Mỗi khi trời mưa, khách có thể kéo
tấm rèm xuống che mưa. Phía trên nước mưa chảy xuống hết hai bên vì nóc là một
cái mái khum tròn như ngôi mộ đất.
Theo một giả thuyết,
xe ngựa được gọi là xe thổ mộ vì giống ngôi mộ đất. Có người thì cho rằng xuất
phát từ tiếng “thảo mã” đọc trại ra. Và cũng có ý kiến cho rằng thùng xe đóng ở
Thủ Dầu Một (Bình Dương) đã được khẳng định trong câu vè: Khô như bánh tráng là
chợ Phan Rang, Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một, Chẳng lo ngập lụt là chợ
Bưng Cầu nên còn được gọi là xe “Thủ mã” rồi đọc trại là… thổ mộ!
Một số tư liệu cho
biết thời thập niên 1940 - 1950 là giai đoạn phát triển mạnh của xe thổ mộ. Tại
chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ nhộn nhịp mà lúc tập trung đông nhất
cũng trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại đóng xe thổ mộ
có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu
Một còn được gọi là xe “thùng Thủ” để phân biệt với các nơi sản xuất khác và
cũng để khẳng định “đẳng cấp”. Nghe nói ông tổ nghề đóng xe là Văn Văn Luốc mà
một lão mã phu còn giữ được chiếc xe của ông tổ đóng từ cách đây hơn 200 năm.
Đọc lại những bài
viết về phương tiện vận chuyển ngày xưa, được biết xe thổ mộ xuất hiện từ
khoảng thập niên 1940 tại Sài Gòn và các vùng phụ cận. Trước khi có xe thổ mộ
thì người Pháp đã dùng xe song mã “Milo” và thêm hai loại xe kiếng - một dành
cho người Tàu và một dành cho nữ tu Công giáo.
Xe kiếng có 4 bánh do
một ngựa kéo, hình dạng như một cái hộp có hai cửa hai bên hông xe và bốn phía
thân trên có kiếng để hành khách bên trong thấy khung cảnh bên ngoài. Về sau,
loại xe này vừa nặng nề, vừa kềnh càng nên được thay thế bằng xe thổ mộ và hai
loại xe khác.
Một loại gọi là “cắc
ké kéo bàn thờ” có mui, hai bánh, một ngựa kéo và một loại là thứ xe không mui,
mưa nắng hành khách phải che dù. Hai loại xe này chỉ được chạy ở tỉnh. Như vậy,
có thể suy nghiệm rằng người dân Nam bộ đã dựa theo xe kiếng để chế ra một loại
xe ngựa phù hợp với địa hình đi lại của dân Sài Gòn - Gia Định mà giá cả lại
bình dân nên rất được người dân Nam bộ ưa chuộng.
Rồi theo quy luật
tiến hóa, xe thổ mộ dần dần phải nhường chỗ cho xe lam và các loại phương tiện
vận chuyển khác. Tôi không còn được nghe tiếng nhạc ngựa, vó câu lóc cóc mỗi
buổi sáng, chợt nhớ bài học thuộc lòng ngày thơ ấu: Khi người mã phu đó/nhìn
bánh xe lăn đều/ông nghĩ thầm trong bụng/nỗi nhọc nhằn sẽ qua/Sau một ngày rời
rã/ông ôm con ngựa già/nói như là ru vậy/ngủ cho mùi nhe con/Ngựa đã già tuổi
qua/ông lại già tuổi hơn/người lẫn vật vất vả/từng manh áo miếng ăn/Ôi ngày qua
tháng lại/bánh xe cũng lăn đều/mà nỗi nhọc nhằn đó/chưa bao giờ lăn qua (Người
mã phu - Huy Giang).
Tiếng lóc cóc vó ngựa
già thổ mộ đã gõ vào ký ức thời thơ ấu quá đỗi ngọt ngào.
Lê Văn Nghĩa
Người viết từ trong
nước304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment