CẢNH
VÀ TÌNH TRONG BÀI THƠ "CHÍ LINH SƠN PHƯỢNG HOÀNG PHONG" của Trần Nguyên
Đán ( 陳元旦
Từ lâu nền văn chương cổ điển Việt Nam như bị lãng quên sau nhũng biến
cố lịch sử trọng đại của đất nước. Nhận thấy nền văn chương quốc âm cần được
duy trì để bảo tồn văn hóa dân tộc và cũng để phát huy những tinh hoa của văn
học cổ điển qua đó chúng ra thấy đựợc lịch sử đấu tranh của toàn dân đồng thời
thấy được công sức của tiền nhân ở thời kỳ lập quốc có những khó khăn mà dân
tộc phải tranh đấu để chiến thắng kẻ thù. Những bài thơ như: Bình Ngô Đại
Cáo, Chinh Phụ Ngâm, Bắc hành tạp lục, Quốc Âm thi tập... có giá trị lâu dài
cho con cháu về sau. Hôm nay nhân đọc bài thơ Chí Linh Sơn Phượng Hoàng
Phong, tôi nhận thấy bài thơ tả cảnh thật độc đáo nên muốn phân tích để gởi đến
quí bạn đọc vài cảm nhận của tôi về bài thơ của nhà thơ kiêm quan Ngự Sử đại
phu Trần Nguyên Đán đời nhà Trần.
Nguyên tác: Phiên âm:
雙鳳悠然望杳冥 Song Phượng du nhiên vọng liểu minh,
鳳凰萬古愛芳名 Phượng Hoàng vạn cổ ái phương danh.
麟峰塔倒如虹影 Lân Phong tháp đảo như hồng ảnh,
鱉水泉鳴作雨聲 Miết Thuỷ tuyền minh tác vũ thanh
危磴經年蒼蘚合 Nguy đặng kinh niên thương tiển hợp,
斷橋過雨黑芝生 Đoạn kiều quá vũ hắc chi sinh.
松風日晚喧空響 Tùng phong nhật vãn huyên không hưởng,
相似來儀奏九成 Tương tự lai nghi tấu cửu thành.
(陳元旦)
(Trần Nguyên Đán)
Khi mất (1390) Thựơng hoàng đề thơ
viếng, truy phong Chưong Túc Quốc Thượng Hầu.
Tác phẩm: Băng Hồ Ngọc Hác Tập đã bị
Tàu đốt chỉ còn lại 51 bài thơ.
Chú thích từ ngữ:
Chí Linh sơn: 至靈山 dãy núi Chí Linh ở xã Kiệt Đặc, huyện Phượng Nhãn tỉnh Hải Dương.
Phượng hoàng: 鳳凰 là chim phượng hoàng, một loài chim thần thoại ,vua của các loài chim.
Ở đây chỉ tên núi, nơi Chu Văn An ở ẩn những năm cuối đời khoảng 1358-1370 sau
khi dâng thất trảm sớ, đòi chém đầu 7 tên gian thần đời vua Trần Dụ Tông nhưng
vua không nghe.
Lân phong 麟峰: một đỉnh núi ở Côn Sơn, Chí Linh,có nhiều am, tháp.
song phụng: 雙鳳 núi hai con phụng, ở đây chỉ địa danh.
du nhiên: 悠然 xa xa, thấp thoáng
minh: 冥 tối
tăm, mù mịt
hồng: 虹 cầu
vồng
Miết thủy: 鱉水 nước suối Miết Trì. Có lẽ do vị trí của suối ở gần ao nuôi ba ba (Miết
trì) nên có tên gọi như vậy chăng?
tác: 作 làm
ra, tạo nên, sáng tác
nguy: 危
cheo leo, ở nơi cao mà ghê sợ, không yên ổn
tiển: 蘚 một
loại rêu ( có bộ thảo trên đầu)
đoạn: 斷đứt,
gãy
quá: 過
qua,đi qua, đã qua. Quá giang là qua sông
lai nghi: 來儀 lại để tiến dâng
Núi Phượng Hoàng nổi tiếng từ ngàn xưa.
Tháp trên núi Lân Phong nghiêng xuống như bóng cầu vồng,
Suối Miết Thủy chảy róc rách tựa tiếng mưa rơi
Bậc đá cheo leo lâu năm rêu xanh phủ kín
Chiếc cầu gãy sau cơn mưa nấm đen mọc đầy
Chiều tà gió thổi rừng thông, reo vang giữa không trung,
Tựa như chim phượng hoàng về chầu tấu chín khúc nhạc.
鳳凰萬古愛芳名
(Song Phượng du nhiên vọng liểu minh,
Phượng Hoàng vạn cổ ái phương danh).
Tác giả giới thiệu phong cảnh núi Chí
Linh, nhìn từ xa, trông thật hùng vĩ, có đỉnh Song Phượng sừng sửng giữa khung
trời bao la mây phủ mịt mù bao trùm cả đỉnh. Đứng trước cảnh hùng vĩ của đất
trời, con người trở nên nhỏ bé lạ thường. Núi Phựợng Hoàng là một danh lam
thắng cảnh của Việt Nam đã nổi tiếng tự ngàn xua vì vẻ đẹp của nó.
Về sau nhà thơ Huy Cận trong bài
"Tràng Giang" cũng đã xử dụng ý thơ tương tự khi ông tả cảnh núi bạc
mây đùn trong cảnh chiều tàn, đồng thời nói lên nỗi nhớ nhà khi khói hoàng hôn
buông xuống:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
鱉水泉鳴作雨聲
(Lân Phong tháp đảo như hồng ảnh,
Miết Thuỷ tuyền minh tác vũ thanh)
Hai câu thơ thật xuất sắc khi tả ngọn
tháp Lân Phong cao vút trong cảnh trời chiều, bóng nó nghiêng, đổ xuống
như chiếc cầu vồng tuyệt đẹp của môt bức tranh thủy mặc. Nhìn xuống thung lũng
thấy suối Miết thủy chảy róc rách tựa tiếng mưa rơi. Hai câu thơ vừa có hình
ảnh vùa có âm hanh thật tuyệt vời. Nghệ thuật tả cảnh thật điêu luyện khiến
người đọc cảm thấy như mình đang đứng trước cảnh núi non hùng vĩ, tai nghe
tiếng suối reo chảy quanh đây.
Tới đây xin được nói qua về thú hưởng
nhàn của nhà thơ Vương Duy 王維
(699-759) thời Thịnh Đường bên Trung Quốc khi ông từ quan về sống ẩn dật nơi
quê nhà, vì cuộc đời ông nầy có nhiều điểm giống Trần Nguyên Đán. Trong một lần
ngao du sơn thủy, ông băng qua sông Hoàng Hoa để tiến vào vùng suối nước Thanh
Khê. Ngồi trên phiến đá phẳng lì, ông ngắm dòng suối trong vắt cạnh rừng thông
vắng lặng, sâu hun hút trong màn sương rồi buông cần câu chờ thời vận, cũng để
quên hết sự đời:
青谿 - Thanh Khê
Phiên âm:
我心素已閒 Ngã tâm tố
dĩ nhàn.
清川澹如此 Thanh xuyên
đạm như thử.
請留盤石上 Thỉnh lưu
bàn thạch thượng,
垂釣將已矣 Thuỳ điếu tương dĩ hĩ.
(Vương Duy)
Cảnh vắng lặng giữa rừng thông hun hút
Cỏ ấu rau hành dập dềnh trên mặt nước
Lau lách soi bóng nước trong veo
Lòng ta xưa nay vốn thích an nhàn
Mà dòng sông xanh lại yên tĩnh như thế
Xin ngồi nơi tảng đá lớn này
Buông cần câu xuống cứ thế qua ngày.
Qua trích dẫn một đoạn thơ của Vương Duy, so sánh núi non, khe suối hai
nơi và cách hưởng nhàn của Vương Duy với Trần Nguyện Đán có gì khác biệt? Trần
Nguyên Đán cũng ngao du sơn thủy, cũng ngồi trên tảng đá rong rêu phủ đầy bên
khe suối Miết Thủy nhưng ông không câu cá đợi thời mà quyết chí từ giả chốn
quan trường để sống thanh cao tự đắc, trái hẳn với Vương Duy và Lã Vọng.
Tâm
sự của Trần Nguyên Đán cũng được cháu ngoại là Nguyễn Trãi lập lại bản sao khi
Nguyễn Trãi từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn vui thú điền viên. Nguyễn
Trãi(1380-1442), con của Nguyễn Phi Khanh(chịu ơn họ Trần), là một quan văn đời
nhà Hồ. Sau khi quân Minh đô hộ nước ta Nguyễn Trãi theo phò Lê Lợi, khởi nghĩa
chống quân Minh cho đến khi thành công. Ông lại được làm quan dưới đời nhà Lê.
Dưới triều Lê Thái Tổ (1428-1433) ông
được tiến chức. Nguyễn Trãi hết lòng phò vua giúp nước nhưng bị bọn gian thần
đố kỵ, xúc xiểm. Khi vua Lê Thái Tông lên ngôi(1433-1442), lúc 10 tuổi,
nhà vua lại tin theo bọn nầy. Do mất niềm tin với vua nên ông từ quan.
Trong bài Côn Sơn Ca, Nguyễn Trãi tìm về với khóm trúc vườn xưa để giữ cho lòng
thanh thản, trong sạch và giử đạo cho thanh cao. Sống ở Côn Sơn ông khẳng
định được cái ta trữ tình trước cảnh núi non hùng vỉ, suối khe chảy rì rầm như
tiếng đàn của ai đó vang bên tai. Côn Sơn lại có đá phẳng lì, rêu phơi sương
phủ, ông ngồi trên đá thật êm, ngước mặt nhìn trời, lòng nghe thanh thản:
Côn Sơn nước chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên taiCôn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.
Hai câu luận (5&6): 危磴經年蒼蘚合,
斷橋過雨黑芝生.
(Nguy đặng kinh niên thương tiển hợp,
Đoạn kiều quá vũ hắc chi sinh).
Hai câu thơ tả cảnh thật tuyệt vời.
Hình ảnh chiếc cẩu gãy bắc ngang qua khe suối tạo thành một cảnh thật đẹp, vừa
thơ mộng vừa hoang sơ quạnh vắng. Với một bút pháp thần kỳ làm nổi bật hình ảnh
thật của chiếc cầu bị gãy, nấm dại mọc đầy trên cầu sau cơn mưa đêm hôm trước.
Đọc mà ngậm ngùi, thương cho hoàn cảnh tác giả vừa gợi nhớ dãy núi Chí Linh
tươi đẹp, bây giờ còn không?
相似來儀奏九成
(Tùng phong nhật vãn huyên không hưởng,
Tương tự lai nghi tấu cửu thành).
Thơ văn của ông cũng như những quan văn vỏ trong triều, chủ yếu là giải
bày tâm sự, thể hiện lòng yêu nước thương dân, và trung thành với vua . Ông vừa
lo cho dân vừa lo cho mình nhất là trong lúc triều chính suy tàn, vận nước sắp
hết. Những bài thơ hay mang chủ đề nầy là: Đề Huyền Thiên quán, Sơn trung tức
sự, Dạ quy chu trung tác, Bất mị..Về mặt nghệ thuật thơ của ông thật đậm đà
tình quê hưong, tha thiết với tiền đồ dân tộc. Phong cách đằm thắm, từ ngữ chọn
lọc, diễn tả đủ yếu tố âm thanh, hình ảnh thật sinh động, chân thật. Hình ảnh
đối lập thì mạnh mẻ làm nổi bật ý chính một cách rắn rỏi trung kiên, thí dụ
trong bài họa thơ của Thái Thượng Hoàng đề ở cung Trùng Quang, phủ Thiên
Trường, chẳng hạn, nội dung cũng để ca ngợi công đức của vua.
Phượng Hoàng nổi tiếng tự xưa nay
Tháp Lân chênh chếch, cầu vồng rọi
Suối Miết rì rào, mưa gió bay
Bậc đá cheo leo rêu phủ kín
Tan mưa cầu gãy nấm giăng đầy
Chiều tà gió thổi thông vi vút
Phụng múa về chầu tấu khúc hay.
Lên núi Phượng
Núi
Phượng mây bay thiên vạn cổ,
Hương
thùa thoang thoảng phấn thông xưa.Tháp Lân trầm mặc trong mơ tưởng,
Văng vẳng ven đồi suối đổ mưa.
2.
Bậc
đá cheo leo rêu phủ biếc,
Cầu
nghiêng mưa tạnh nấm lan manGió chiều vi vút thông reo sóng
Từng đợt lưng trời,đổ nhặt khoan.
Bản
3
Phượng Hoàng nổi tiếng tự ngàn xưa
Kỳ Lân tháp ngả như vồng bóng
Miết Thủy suối gào giống tiếng mưa
Dốc núi đá chồng rêu phủ lấp
Tan mưa cầu gãy nấm đen mờ
Chiều tà gió nổi thông reo hát
Như phượng hoàng về tấu cửu ca.
No comments:
Post a Comment