When you are old
And nodding by the fire, take down this book,
And slowly read, and dream of the soft look
Your eyes had once, and of their shadows deep;
How many loved your moments of glad grace,
And loved your beauty with love false or true,
But one man loved the pilgrim Soul in you,
And loved the sorrows of your changing face;
And bending down beside the glowing bars,
Murmur, a little sadly, how Love fled
And paced upon the mountains overhead
And hid his face amid a crowd of stars.
William Butler Yeats (13 tháng 6 năm 1865 - 28 thàng 1 năm 1939) là một nhà thơ, nhà soạn kịch người Ireland đoạt giải Nobel Văn học năm 1923. Ông sinh ra giữa thời đại mà Ireland bắt đầu thức dậy một phong trào yêu nước, đỉnh cao là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc 1919-1923. Thời đại này đã mang lại một xung lực cho sáng tác của ông.
William
Butler Yeats sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ, bố là họa sĩ chân dung nổi
tiếng John Butler Yeats, em trai Jack Butler Yeats cũng là một họa sĩ. Bản thân
William Butler Yeats cũng từng học trường nghệ thuật và có ý định sẽ sống bằng
nghề hội họa nhưng thơ ca đã xâm chiếm tâm hồn ông ngay từ những thành công đầu
tiên. Năm 1868 cả gia đình chuyển đến London, năm 1880 trở về Dublin và năm
1887 quay lại London. Tại đây ông bắt đầu in những bài thơ và kịch đầu tiên
trên các báo và tạp chí. Năm 1889 ông xuất bản cuốn sách đầu tiên The Wandering of Oisin and Other Poems
(Những cuộc viễn du của Oisin và các bài thơ khác) và bài trường ca The Wandering of Oisin – tác phẩm
chính của tập sách này dựa theo mô-típ dân gian của Ireland.
Cũng trong thời gian này Yeats gặp gỡ và làm quen với nữ nghệ sĩ Maud Gone – một trong những người của phong trào giải phóng dân tộc Ireland, tham gia tích cực vào phong trào "Phục hưng Ireland". (Mục đích của phong trào này là phục hồi tiếng Gaeilge, tìm hiểu văn hóa và lịch sử Ireland, sáng tác những tác phẩm dựa trên những truyền thuyết, huyền thoại của Ireland, thành lập nhà hát dân tộc.) Năm 1904 Yeats cùng với một số bạn bè thành lập Nhà hát Abbey và liên tục làm việc tại nhà hát này đến khi chết.
Sau năm 1910, các vở kịch nghệ thuật của Yeats
chuyển hướng đột ngột sang viết bằng thơ, phong cách bí ẩn, có nhiều khoảng
trống. Những vở kịch sau đó (ông viết cho số ít khán giả chọn lọc) là những thử
nghiệm với vũ điệu, âm nhạc và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những vở kịch Noh (能
Nō) của Nhật Bản. Từ năm 1922
đến năm 1928, Yeats là thượng nghị sĩ của Nhà nước Ireland tự do, tham gia
nhiều hoạt động chính trị ở Ireland, sáng tác của ông thời kỳ này mất dần tính
lãng mạn và trở nên thâm trầm sâu sắc. Hai tác phẩm đáng chú ý cuối cùng của
ông là A Full Moon in March
(Rằm tháng Ba, 1935) và Last Poems and
Plays (Những bài thơ và những vở kịch cuối cùng, 1940).
Thơ ca của Yeats mang đậm hơi thở, phong cách dân
tộc Ireland. Nhiều đề tài, hình tượng trong thơ ông được lấy từ kho tàng thơ ca
dân gian kết hợp với khuynh hướng biểu tượng và lãng mạn trữ tình. Tác phẩm của
ông giàu hình tượng với những quan sát tinh tế, kết hợp vẻ đẹp bên ngoài với
chiều sâu trí tuệ bên trong. Năm 1923 ông được trao giải Nobel vì sự nghiệp
sáng tác phản ánh cao độ tinh thần dân tộc trong những tác phẩm điêu luyện.
Yeats có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca tiếng Anh trong thế kỉ 20. Tên tuổi của
ông đặt ngang hàng với những nhà thơ lớn nhất của thế kỉ 20. Ông mất tại miền
nam nước Pháp.
KHI TUỔI XUÂN EM TÀN PHAI
Thường ngồi một mình bên bếp lữa, gục đầu
Em hãy mở tập thơ* nầy, đọc thật chậm
Để mơ về những cái nhìn trìu mến
Có lắm người yêu em, lúc tuổi xuân thì
Anh đâu biết tình yêu đó chân thành hay gian dối?
Chỉ một người yêu em với tấm lòng không đổi
Em cúi xuống bên bếp lữa hồng rực cháy
Thở than buồn vì tình vội qua mau
Bóng anh dần khuất trên đỉnh núi cao
Rồi giấu mình giữa ngàn sao lấp lánh...
(Phỏng dịch)
Ghi chú:
1/.
Tập thơ*: sách của Yeats, ông nói về tuyển tập thơ văn, viết cho người yêu Maud
Gonne.
2/.
Trong đoạn ba, nhà thơ nói nhiều hơn nữa rằng khi về già nàng sẽ ngẫm nghĩ, gục
đầu bên lò sưởi và thương khóc để tang cho nhà thơ lúc đó sẽ bước đều lên đỉnh
núi và nhập vào với tinh tú trên trời, sau khi ông đã rời thân xác.
No comments:
Post a Comment