Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc
ngữ cuối thế kỷ XIX
Trong suốt cuối thế kỷ XVI và nửa
đầu thế kỷ XIX, chữ quốc chỉ được dùng trong mục đích truyền giáo. Đây là loại
kí tự dùng chữ cái La tinh để ghi lại tiếng nói của người Việt. Công trình này
lần lượt được các nhà truyền giáo dòng Tên khởi nguồn và hoàn thiện, từ Gaspard
d’Amaral và Antonio Barbosa, hai giáo sĩ dòng Tên người Bồ Đào Nha, cho tới
Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ) hay Pigneaux de Béhaine (cha Bá Đa Lộc), người
Pháp.
Khi mới đặt chân tới Tourane (Đà
Nẵng) vào năm 1624, cha Đắc Lộ đã không khỏi ngạc nhiên khi nghe người bản địa,
đặc biệt là phụ nữ, nói như “chim hót” và đã từng nghĩ không thể nào học được
tiếng nói này. Sau này, chính ông là người đã hệ thống hóa và phổ biến loại chữ
viết La tinh, vừa dễ học vừa nhanh hơn so với chữ Hán và chữ Nôm. Tuy nhiên,
chữ quốc ngữ được hoàn thiện như ngày nay là nhờ vào công sức của cha Bá Đa Lộc
trong khoảng cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX.
Sau khi chiếm được Sài Gòn và bắt
đầu công cuộc khai thác, chữ quốc ngữ trở thành công cụ hữu ích cho chính sách
đô hộ. Chính quyền Pháp muốn sử dụng loại chữ viết này để cắt hẳn mọi liên hệ
giữa người dân Nam Kỳ, giờ đây nằm dưới sự cai trị của người Pháp, với nền văn
minh Trung Hoa, tiếp theo là phổ biến học thuật Pháp và đồng hoá dân bản địa.
Trong thư văn đề ngày 15/01/1866
gởi cho thống đốc Sài Gòn, giám đốc nội vụ Paulin Vial có viết : « Từ những
ngày đầu người ta (Pháp) đã hiểu rằng chữ Hán còn là một ngăn trở giữa chúng ta
và người bản xứ ; sự giáo dục bằng thứ chữ tượng hình khó hiểu làm chúng ta rơi
tuột hoàn toàn ; lối viết này chỉ tổ khó cho việc truyền đạt đến dân chúng
những điều tạp sự cần thiết có liên quan tới khung cảnh của nền cai trị mới
cũng như cho việc thương mại… Chúng ta bắt buộc phải theo truyền thống nền giáo
dục riêng của chúng ta ; đó là cách duy nhất khiến chúng ta có thể gần gũi
người An Nam thuộc địa hơn, ghi vào tâm não họ những manh mối của nền văn minh
Âu châu đồng thời cô lập họ khỏi ảnh hưởng đối nghịch của các lân quốc của
chúng ta ».
Tuy nhiên, các đô đốc Pháp nhanh
chóng hiểu rằng rất khó thay đổi được một đất nước chịu ảnh hưởng của Khổng
giáo và lòng trung thành sâu sắc của người dân đối với triều đình. Họ chú ý
tăng cường ảnh hưởng của Pháp tới đời sống và phong tục của người Nam Kỳ. Để
thực hiện thành công chính sách cai trị và “mị dân”, các “quan” Pháp được
khuyến khích học chữ hán, chữ quốc ngữ, nghiên cứu phong tục tập quán, ngôn ngữ
và lịch sử của Việt Nam. Chính vì thế, rất nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp và
tiếng Việt mang tính chuyên môn cao được các “học giả” quân sự dịch và soạn
thảo trong giai đoạn này.
Mặt khác, họ đưa chữ quốc ngữ ra
khỏi khuôn khổ của Giáo Hội để phổ biến trong dân. Ngay từ năm 1864, các trường
tiểu học quốc ngữ được thành lập tại các trung tâm quan trọng nhất và các làng
công giáo. Mục đích chính là nhằm đào tạo một thế hệ công chức tương lai tận
tâm với nước Pháp, đồng thời cắt đứt ảnh hưởng của Nho giáo. Bắt đầu từ năm
1882, chữ quốc ngữ được dùng là văn tự chính thức trong giao dịch, giấy tờ hành
chính, tư pháp và thương mại của nhà cầm quyền thuộc địa. Các quan địa phương
phải học chữ quốc ngữ và chỉ được thăng chức hay giảm thuế nếu biết đọc, biết
viết loại văn tự này.
Biên soạn giáo trình dạy chữ quốc
ngữ
Về phần mình, từ khi được bổ nhiệm
làm chánh tổng tài tờ Gia-định báo (16/09/1869), Trương Vĩnh Ký có cơ hội để
phát triển sự nghiệp dịch thuật và viết văn. Đây cũng là vị trí và công cụ giúp
ông phổ biến rộng rãi hơn chữ quốc ngữ. Thái độ ủng hộ việc truyền bá học thuật
bằng kí tự La tinh này đã được ông thể hiện với Richard Cortembert ngay từ
chuyến công du sang Pháp.
Sau này, lợi ích và vai trò của nó
còn được ông nhấn mạnh trong cuốn Manuel des écoles primaires (Giáo trình cho
các trường tiểu học, 1876) như sau : « Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của
nước nhà. Cần phải nắm vững nó cho điều tốt đẹp và cho sự tiến bộ. Vì thế,
chúng ta phải tìm mọi cách để phổ biến chữ viết này ». Ông cho rằng loại chữ
viết đơn giản, dễ học này sẽ là phương tiện hiệu quả để tiếp thu những kiến
thức mới vì ba lý do : Thứ nhất, do nạn mù chữ đại trà trong dân, tiếp theo là
chữ hán sẽ không còn có ích một khi người Pháp cai trị Nam Kỳ và cuối cùng, chỉ
cần ba tháng là có thể biết đọc và viết chữ quốc ngữ.
Ngoài ra, ông còn khuyên nhủ người
học như sau :
« Sách nầy là sách rút tóm lại
những đều đại-cái người ta phải học, để cho con trẻ mới vô trường, học những
đều đại lược mà phá ngu, cho đặng đến sau khi vào trường chung nghe dạy nghe
giải rộng các đều ấy thì mau hiểu hơn là một ; hai nữa là để mà tập coi, tập
đọc tập viết tiếng Annam trong chữ quốc-ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng,
phân biệt ra cho rõ-ràng.
Khuyên các trò hãy bớt tính ham
chơi, mà chuyên việc học-hành, chữ-nghĩa, văn-chương cho được vào đường
công-danh với người-ta cho sớm, trước là cho đặng đẹp mặt nở mày cha mẹ, giúp
đời dạy dân, sau là cho mình được công thành danh toại, thơm danh, tốt tiếng ở
đời ».
Dù tên sách viết bằng tiếng Pháp
nhưng đây là bộ giáo án giành cho giáo viên, gồm hai phần, phần một là « phép
học chữ quốc ngữ, lịch sử An Nam và Tàu », và phần hai gồm « các khái niệm khoa
học cơ bản ». Trong đó, Trương Vĩnh Ký giải thích cách tổ chức một buổi lên
lớp, các hoạt động hay cách đánh giá học sinh.
« Hễ trò nào mới vô thì phóng vở
theo đã ra trước nầy, giao cho nó, cấp cho một trò cũ đã biết mà nhác-biểu
chỉ-vẽ cho nó.
Phân lớp ra mà dạy cho dễ : Như
học-trò đã biết viết, biết đọc thì bát nó viết mò, bát đọc một đoạn sách cho lẹ
cho xuôi. Viết mò thì lấy những tuồng, văn, thơ, phú, mà nói cho nó viết, viết
rồi thì thầy coi mà sửa lại cho nó, cho chính câu chính chữ.
Còn mỗi bữa học, bát nó kiếm câu
hát, câu đối, lời phương ngôn tục ngữ, diêu ngôn vân vân, mà viết ra một đâu
câu chẳng hạn, đem tới nộp cho thầy sửa, góp những cái ấy lại, để một nơi.
Dạy toán thì trước hết dạy bốn
phép, cộng, trừ, nhơn, chia, cho rõ. Rồi cứ ra bài đố cho nó mần cho quen. Dạy
phép đo cũng vậy… Những tập nó học nó viết mỗi bữa học thì thầy sửa rồi đề ngày
vô cho nó, cho dễ xét đứa nào trễ-nải, đặng như quan có đòi thì thầy có sẵn mà
nộp cho quan ».
Một giáo trình khác được Trương
Vĩnh Ký biên soạn nhằm chủ yếu vào giới quan lại địa phương khi có nghị định
bắt buộc dùng chữ quốc ngữ trong các văn bản hành chính. L’Alphabet quốc ngữ en
treize tableaux avec des exercices de lecture (Vần quốc ngữ thông qua 13 bảng
và các bài tập đọc, 1887) giúp các quan học loại chữ viết này trong một thời
gian ngắn. Tám bảng đầu dạy học nguyên âm và phụ âm cùng với sáu thanh điệu và
cách ghép vần. Các bảng còn lại gồm các bài tập đọc, từ đơn giản tới phức tạp.
Sưu tầm-chuyển ngữ
Song song với việc soạn giáo
trình, Trương Vĩnh Ký dùng chữ quốc ngữ ghi lại những cuốn sách Tàu và những
tác phẩm được viết bằng chữ nôm. Trên thực tế, hai loại chữ tượng hình trên dần
dần bị sao nhãng và ngày càng có ít người sử dụng. Chữ Hán chỉ giành cho một bộ
phận nhỏ gồm các nhà nho và quan lại. Trong khi đó, chữ Nôm còn phức tạp hơn do
mượn Hán tự. Vì vậy, cần phải biết chữ Hán mới có thể học được loại chữ này.
Hơn nữa, Trương Vĩnh Ký cho rằng
văn học Việt Nam mới chỉ có thơ ca với nhiều thể loại khác nhau, song không có
văn xuôi và các loại khảo cứu, nghị luận. Dịch thuật là một cách giúp học làm
văn và làm giàu từ vựng tiếng Việt. Chính vì thế, không có gì ngạc nhiên khi
một phần ba trong tổng số 118 tác phẩm của ông là các công trình dịch thuật.
Vấn đề phiên dịch các tác phẩm Tầu
ra thể văn vần chữ quốc ngữ cũng đã được Luro, một thanh tra bản xứ sự vụ,
trong bản báo cáo ngày 06/01/1873, đề xuất : « Từ lâu, tôi thỉnh cầu một cách
vô hiệu rằng người ta phải phiên dịch, dưới sự chăm sóc của một hội đồng có đủ
quyền hành, lịch sử nước An Nam và những sách cao quí triết lý của Trung Hoa.
Người dân ít nghe tiếng Quan thoại, họ sẽ rất sung sướng có được những cuốn
sách dịch bằng ngôn ngữ thường ngày của họ một cách thanh nhã. Họ sẽ mua, sẽ
đọc những cuốn sách đó. Trong số các thừa sai và viên chức của chúng ta, chúng
ta có nhiều người có đủ khả năng để hoàn thành những sách dịch thanh nhã từ
tiếng Quan thoại ra tiếng nói hàng ngày ».
Như vậy, cả chính phủ Pháp và
Trương Vĩnh Ký đều tận dụng thời cơ để phổ biến chữ quốc ngữ. Chính quyền Pháp
muốn « mượn tay » những công chức Pháp hóa để tách rời dân chúng khỏi ảnh hưởng
của văn hóa Trung Quốc. Còn Trương Vĩnh Ký thì hoàn toàn tin vào chính sách
khai hóa của nước Pháp. Và, theo ông, công cụ duy nhất để có thể đạt tới trình
độ « Học thuật Châu Âu » là chữ quốc ngữ. Chính vì thế, ông tìm mọi cách để
loại chữ viết La tinh này được phổ biến rộng rãi tới các tầng lớp dân chúng.
Từ khi chữ quốc ngữ trở thành văn
tự chính thức tại Nam Kỳ vào năm 1882, ông chuyển ngữ ngay nền văn chương
truyền khẩu bình dân, gồm những áng văn vần và chuyện dân gian rất được ưa
chuộng, như : Phép lịch sự Annam (1881), Thơ dạy làm dâu (1882), Thơ mẹ dạy con
(1882), Nữ tắc (1882), Thạnh suy bỉ thới phú (1883), Cờ bạc nha phiến (1884),
Ngư tiều trường điệu (1884)… Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận
định rất đúng khi viết : « Hồi đó, ông (Trương Vĩnh Ký) cần phải xuất bản như
thế, cốt dùng những chuyện phổ thông làm cái lợi khí cho chữ quốc ngữ được lan
rộng trong nhân gian… »
Tất cả đều được bán với giá rất
hợp lý. Thường những tập dày 7 đến 10 trang, được bán với giá từ 35 đến 50 xu
franc và từ 1 đến 2 franc đối với những tập dày trên hai mươi trang.
Viết văn
Thông qua những bản dịch, lần đầu
tiên một loại hình văn học mới được đưa vào Việt Nam. Đó là văn xuôi, với nhiều
thể loại khác nhau, như tiểu luận, kí sự hay tiểu thuyết. Tại thời kỳ đó, thể
loại này còn chưa được ưa chuộng và không được coi là « văn học », vì người ta
cho rằng văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ ngang như lời nói. Công bằng mà nói,
lời nhận xét khá đúng, vì ngôn từ và cách hành văn trong các tác phẩm thời đó
thiếu trau chuốt và tự nhiên như văn của thế hệ sau này.
Bài văn xuôi đầu tiên do Trương
Vĩnh Ký biên soạn, dài khoảng bẩy trang, xuất hiện trên tờ Gia-định báo vào năm
1863, dưới tựa đề Ghi về vương quốc Khơ Me (1863). Phải chờ tới năm 1881,
Trương Vĩnh Ký viết một tập bút kí khác, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876),
công phu hơn và trau chuốt hơn. Tuy nhiên, ông phải mượn rất nhiều từ Hán để có
thể miêu tả tỉ mỉ chuyến đi này. Không bàn tới mục đích của chuyến công du Bắc
Kỳ của Trương Vĩnh Ký, ở đây chúng ta chỉ quan tâm sau chuyến đi này, ông viết
một bản hồi kí ghi lại những kỉ niệm, những điều « mắt thấy tai nghe », vị trí
địa lý, lịch sử, những phong tục tập quán của những địa phương nơi ông đi qua.
Ví dụ văn phong trong một đoạn
miêu tả « Chợ » ở Bắc Kỳ : « Chợ-búa nội cả tỉnh cũng nhiều lắm. Mà chợ lớn có
tiếng và đủ đồ hơn hết tại Bắc-kỳ, thì là những chợ kể trong câu ví nầy : Xứ
Nam là chợ Bằng Vồi ; xứ bắc Giâu, Khám, xứ đoài Xuân Canh ; nghĩa là tỉnh
Hà-nội, Hưng-yên, Ninh-bình, Nam-định là phía nam, thì có chợ Bằng, chợ Vồi có
tiếng hơn hết. Còn bắc là Bắc-ninh, thì có chợ Giâu, chợ Khám ; xứ đoài là trên
Sơn-tây thì là chợ Thâm-xuân-canh ».
Một nhà nghiên cứu nhận xét đây là
« một trong vài tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ sớm nhất của thế kỷ XIX, Chuyến
đi Bắc kỳ năm Ất Hợi để lại nhiều dấu ấn ngôn ngữ với những phương ngữ, tiếng
Việt cổ có giá trị về mặt ngôn ngữ. Câu văn khúc chiết, sinh động chứng tỏ năng
lực viết văn xuôi quốc ngữ của tác giả trong buổi sơ khai của loại chữ mới mẻ
này ».
Tới năm 1918, quốc ngữ trở thành
chữ viết bắt buộc tại Bắc Kỳ. Từ giai đoạn này trở đi, các nhà trí thức trẻ
không ngừng trau dồi, phát triển và phổ biến nền văn học hiện đại Việt Nam. Năm
1954, quốc ngữ trở thành chữ chính thức của các cơ quan hành chính Việt Nam.
Điều này đã khẳng định tiên đoán cũng như mong muốn của Trương Vĩnh Ký vào năm
1876 : « Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của nước nhà ».
Theo RFI
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment