Phương-Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt
trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan-Lâm chừng bẩy dậm. Từ
Đan-Lâm vào Phương-Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dòng suối
phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong
làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày
trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựạ
Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan-Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi
tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.
Lão Nông có con ngựa
trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên
lão đặt tên nó là Kim-Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ
lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước-Hao. Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy
có con nào tướng phách toàn-mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thể
"cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến.
Từ khi con Kim-bông bắc
yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua
ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lão. Không cuộc đua nào con Kim-Bông
không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra
khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.
Thuở ấy chúa Trịnh đang
cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước, nên liền ủy một viên quan
hầu cận, tìm đến tận nơi hỏi mua.
Lão nông tuy luyến tiếc
con Kim-Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lão sẵn sàng trao lại cho viên quan
mà rằng :"Con ngựa của bần dân thuộc loại quý mã, lạ vật, nhưng nó hiểu
tiếng người. Bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ
núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc
cho đời nó lắm ! Nay chúa công lại cho vời nó về chốn triều đình để dùng nó
xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng
bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nói tay trao cương cho viên
quan. Con Kim-Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ
giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.
Trên đường về, viên quan
hết lời khen ngợi con quý mã; Kim-Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi
núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tâỵ. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long.
Viên quan vào tâu với chúa
Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh
lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua để kén
ngựa chiến.
Một buổi sáng, trên các
ngã đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ về xem như nước chảy.
Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ
binh nai nịt gọn gàng. Con Kim-Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó
rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường như để dương oai với đồng
loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ
binh đứng bên cạnh, bổng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt
nhìn Kim-Bông và cũng cất tiếng hí theo.
Sau ba hồi trống lệnh,
các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc
mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân-dân reo hò vang dậỵ
Chỉ trong chớp mắt, con Kim-Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân
trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không
hề chạm đất. ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh,
oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là
tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hằng loạt ngựa thấy sức mình không
sánh kịp con Kim-Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái
bóng trắng nhỏ dần trong bụi nắng lòa của kinh thành. Khi dứt hồi trống, con
Kim-Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng reo hò ca ngợi của xung quanh, nó càng
nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa
mới phỉ sức.
Khi tiếng trống lệnh
chuyển sang phi nước kiệu, con Kim-Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm
liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải
ra trắng như một dòng nước chảy xối. Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một
kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt.
Lúc này nó thấy tất cả
đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một
tiếng thật dài kiêu hãnh.
Sau cuộc đua này, nó
được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên-lý-mã" và chọn làm
mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Cho nên chẳng bao
lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ đó nó cùng
bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất
là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng
quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thâỵ Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ
đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó
được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.
Chúa Trịnh truyền cho
quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng-uyển, để làm chổ
tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quý của
Chúa.
Lần đầu tiên con
"Thiên lý" đặt chân tới Hoàng-cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài
nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó
toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hão. Nó toát mồ
hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt
nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gương trần bên hành lang. Nó rụt rè, co
cổ lại khi mã phu dắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của
một tướng lỉnh.
Con Thiên lý được vào
ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một
chổ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi.
Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở
bên ngoài cung cấm : "Ôi chao ! Còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại
trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba ? Với cái sức khỏe bay hàng nghìn
dặm, với cái thể "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen sông
pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được ? Sao Chúa
không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường ? Hay Chúa đã quên ta
là kẻ có tài ?".
Một buổi sáng, nó đang
đứng trong Mã-đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó
bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng
dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sững sốt, tưởng phen này lại được xung
trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim
tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa
mang đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh
đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và
đẹp đẽ làm sao? Đời nó chưa từng thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng
sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi
mã phu buông tay: lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che
ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôị Rồi một mã
phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. ủa lạ quá chừng,
những cái gì mà đẹp thế này ? Ta sẽ làm gì đây ? Nó rùng mình, thấy hãnh diện
như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.
Bỗng dưng hai càng gỗ dúi
mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngốc được lên thì
giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp
nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún
xuống. Nó phải cố lấy gân bốn bó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng
có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đị Khi nghe tiếng bánh xe
nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho chúa.
Nó gục đầu xuống lủi
thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.
Nhưng chẳng bao lâu,
những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân-tử vừa thơm
vừa ròn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua
ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên-lý dần dần quen với chức vị.
Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên-lý-mã.
Trong những buổi chầu nó
thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần,tà áo, văn có, võ có, lướt
đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm ! Chốn thâm
nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc-sự triều-đình nào
vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung-hô Vạn-tuế.
Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai-phong
chiếm giải đầu trên các trường đua.
Một buổi chiều, trên
cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã
gợn lên một mầu đỏ nhạt của giáng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng Bà Phi đi
ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng
dưới nước. Chà! mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư ? Kìa hai lá đa
che mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần ? Hai càng gỗ khác gì tay
ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự ! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta ! Nó
càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn
sắc trời.
Nó đang say sưa ngắm
bóng bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất
bước. Xe tới đầu vườn thượng-uyển, có lệnh dừng lạị Tức thì hai bên tay ngai
dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bổng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một
luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa.
Nó phồng hai cánh mũi hớn mặt lên thì gấu xiêm mầu thiên-thanh của Bà Phi phất
nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy
từ ngang lưng trở xuống của Chúa và Bà Phị Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và giải
xiêm Bà Phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm động, đứng
ngẩn ra, hai mắt dương thao láo : "Chà ! Thật là ngoạn mục ! Ôi ! Giời đã
ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu-vật của trần-gian, ta
đội ơn Trời ".
Càng nhìn theo càng thấy
ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống
đất cộp cộp mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một
hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập dầu vừa kể tội : "Tội
thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đã để cho Chúa và Bà Phi phải vất vả khó
nhọc biết chừng nào ! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so
sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho như thế chẳng phải
trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao ? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phảo.
Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng
loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ
được an-cư lạc-nghiệp ! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái
vượt hàng ngàn dậm đối với ta cò gì đáng kể ".
Sống một cuộc đời lặng
lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm,
mao con Thiên-lý đã trồi lên một lớp lông vàng sòe. Trước mã đài nó đã nhìn
thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã chuyển dần về
già. Tài nó cũng đã mòn mổ. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dậm.
Có một buổi sáng, nó
được kéo xe để Chúa cùng Bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ
Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoàị Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ
Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó
lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi : " Làm sao con đường này ngày
xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này ! ". Đi được một quãng nó nhìn lên phía
trên, lại dừng lại tự hỏi : "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm
bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa
làm sao ?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp.
Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con dường thẳng. Rồi cây cỏ, núi
đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ
hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều.
... Xe đi mãi. Lúc gần
đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở :
"Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng ". Vừa
nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước
mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của
nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng : "Bọn nhãi kia, tội các
chú đáng chặt đầu làm lệnh ! Các chú không biết ta là ai ư ? Đã quên tài của
anh đấy rồi sao ?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ
: "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ
chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ ! Đững khoe tài
nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa ! Rời ra thì
thóc kia trộn mật ai ăn ?".
Con Thiên-lý uất lên,
muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại dật cương.
Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đo. Vừa đi vừa nghĩ : "Những kẻ ngu si
hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nhìn có một chiều. Bây không biết được ta làm
đây dể mấy kẻ đã làm được ! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được
vài dậm đã phờ mao sều dão. Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ba !".
Và hình ảnh một trường
đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên-lý-mã
vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.
Sự đời biến đổi. Sau đó
ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa
định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh
ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại :
"Muôn tâu Chúa-công, hiện nay trong triều-đình thiếu gì ngựa chiến có dư
sức vượt hàng nghìn dậm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin chúa-công
để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khỏe vào bực nhất. Còn như
con mã-lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì
nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu chúa-công
dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm ! ".
Nghe tâu trình, chúa
Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh,
Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện
bề kén chọn.
Con Thiên-lý-mã được dịp
rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn
giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa,. đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong
chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố
dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của
nó vừa ré lên thì cụt lủn như vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe
răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống
lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ rạch vượt theọ Tiếng
trống liên hồi, con Thiên-lý càng cắm cổ chạỵ Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó
đắc chí ngoáy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp
mắt nó bị tụt lại. Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở
trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong
bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng
mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng : " Tiếng tăm lừng lẫy của
ta chỉ có thể chết ở chiến-trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này cũng là bãi
chiến-trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa ! ".
Trước hơi thở cuối cùng,
nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai
chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phong vĩ".
Hà Nội 10-1956
Phùng Cung