THỊ TRẤN X
Một thuở, anh nhớ lại, như danh nhân nọ, anh đi dong dạo
đơn độc. Danh nhân nọ đi dong dạo đơn độc tám năm trong điền trang một vùng
quê, thấp thoáng bóng dáng một mệnh phụ. Anh bây giờ vẫn đi dong dạo đơn độc,
liệu anh có chờ đợi một bóng dáng nữ nhân được hứa hẹn?
Cô gái chỉ là một tên gọi, Liên, chủ nhân đích thực của ngôi nhà, ông H. bảo vậy, anh đang ở trọ nhưng không phải trả tiền.
Anh đã viết trong thư gửi ông H., người bảo trợ anh, ở thành phố:
“…Có lẽ tôi thất bại rồi, ở đây tôi đói lả tiếng động. Tại sao lại vắng lặng đến như vậy? Bằn bặt. Thảng hoặc tiếng chim đơn lẻ trong vườn có cất lên cũng lập tức lọt thỏm vào trống không. Vậy mà ông bảo tôi cứ thanh thản ở đây. Ông bảo tôi sẽ gặp cô em họ của ông, Liên, mà ông luôn gọi là người phụ nữ định mệnh. Tôi đã chờ đợi. Tới bây giờ, lúc tôi đang viết những dòng gửi ông đây, tôi chỉ chờ đợi một điều duy nhất, tiếng động. Tôi chỉ cần thiết nghe tiếng động, như cây cỏ cần thiết những giọt sương. Tôi chỉ cần thiết có vậy để sống.”
*
Anh ngụ trong một căn phòng của ngôi nhà có ba căn phòng. Ngôi nhà mái ngói âm dương thấp xoải, cũ kỹ, hiu quạnh như nơi chốn của nó, một thị trấn của một huyện lỵ heo hút mù bụi, một thị trấn hình như không có tên. Anh chợt nhớ tới một nơi chốn, thị trấn miền đông của nhà văn nọ. Anh ngụ tại đây, ông H. bảo, để thay mặt ông gần gũi bà cụ, mẹ ông. Bà cụ sống trong ngôi nhà cách xa ngôi nhà này chừng nửa cây số, có gia nhân chăm sóc.
Tất nhiên ông H. có thư phúc đáp:
“…Chú không ở đây thì cũng chẳng có nơi nào khác thích hợp hơn với chú nữa…”
Anh thầm hỏi, tại sao ông H. không nói thẳng ra rằng, anh đã cùng đường, chẳng còn chỗ dung thân? Ông H. lại trưng ra sự tệ hại của tiếng động, tiếng ồn ở thành phố là hoàn toàn xấu đối với sức khỏe:
“…Còn như chú phải canh giữ vườn trái ruộng nương sợ chim choc phá hoại, tôi sẵn sàng mua về máy phát tiếng thu thanh heo bò rống ở lò sát sinh, để xua đuổi chúng. Hay tôi biểu ở dưới ấy dẫn điện vô nhà, mua máy cát-xết để chú nghe nhạc…”
Anh nghĩ ông H. có thể tiếp tục: nếu không có hoa để ngắm, ông sẽ gửi về đây đủ loại hoa giấy, hoa vải, hoa ni-lông…
Anh được sắp xếp chỗ ở trong căn phòng chính giữa của ngôi nhà. Căn phòng phía trái là nơi ở của Liên. Cô gái không thể xa rời thêm một gang tấc nào, ngôi mộ người cha ở phía trái đó. Phía bên phải, người em họ khác, vai em của Liên, ông H. bảo, cũng bất chợt về trú ngụ như Liên. Anh ta chỉ ở căn phòng phía bên phải ấy, không thể xa rời một phân ly nào cây đại hồ cầm của người quá cố thân yêu nhứt với anh ta, để lại ở chỗ này.
Anh chưa hề thấy ngôi nhà tương tự nào bố trí ngăn chia đều đặn, riêng biệt rạch ròi như ngôi nhà này. Những vách ngăn bằng gỗ xưa cũ đã bóng ngời, hẳn được thiết lập như vậy từ bấy lâu rồi. Giống phòng trọ trong nhà nghỉ sang trọng, anh có thể gọi ngôi nhà này là khách sạn của một vùng quê vắng lặng, bặt thinh.
Anh ngồi trong căn phòng được sắp xếp dành cho mình, hồi nhớ người thầy dạy tiếng Pháp, ông T., hơn anh vài tuổi. Khách sạn X ở thành phố, ông cư ngụ sau khi rời trường đại học nổi tiếng của Pháp quốc, trở về quê hương. Ông dạy môn tiếng Pháp tại một trường trung học nổi tiếng bậc nhất của thành phố, chỉ chọn một người học trò, và một tác phẩm của một tác giả ngoài chương trình. Anh biết ông T. là kẻ bị ám. Nhân vật của tác phẩm ấy, Roquentin, người học trò ấy, có ý nghĩa đối với ông.
– Hình như cậu có làm thơ?
Ông nhìn và biết anh có làm thơ. Theo đề nghị của ông, anh viết hai dòng thơ trong bài thơ đầu đời của anh, trên trang giấy để trống của tác phẩm ấy, quyển sách không rời ông:
Hai bàn tay mười ngón hao gầy
Nghe nỗi đau rừng ứa nhựa cây
Ông nói, rất nhiều đêm, ông nằm ngó mãi mảng trần hoen ố, căn phòng câm nín, cũng may còn nghe tiếng kêu vo ve của mấy con muỗi bay loanh quanh bốn bề vách ngăn.
Anh nhớ lại hành lang tối bẩn chật hẹp trước cửa căn phòng khách sạn, bốc lên mùi tanh nồng, mùi ẩm mốc. Ông nằm cứng đờ, xám ngoét bên lọ thuốc còn sót vài viên, ngay dưới chân giường.
Con chó anh dẫn theo, cùng về đây với anh được mấy ngày, tự dưng bỏ đi đâu mất biệt.
Anh không ngủ được, nhìn lên, nhìn lên mãi, mái ngói âm dương, những vì kèo cũ đen, anh biết chúng vẫn dàn trước mắt, trong bóng tối ngôi nhà.
*
Anh chợt nghe tiếng động, tiếng rên nhỏ như sợi dây kim loại đang rung. Anh vùng trở dậy, ngó quanh khắp căn phòng. Không, không phải con chó trở về, rên nhỏ bên giường như đêm kia.
Anh nhớ lại, thư ông H. vẫn nhắn nhủ, Liên, Liên, người phụ nữ định mệnh ấy… Số phận sẽ dành ân sủng cho cô gái… Liên, cuối cùng sẽ gặp chú, dưới đáy vực cô đơn, chú đã từng thấy vậy, cũng như Liên…
Tiếng phừng phựt đột ngột. Ai đấy vừa kéo mạnh phím đại hồ cầm, ngay trong căn phòng phía bên phải của ngôi nhà. Tiếng rên bất chợt, ngắn ngủi, lụi tắt, lại nổi lên từng hồi, như từ một âm vực sâu kín nổi lên từng hồi, rung trong không gian trống vắng.
Bỗng chốc tiếng thở hổn hển, tiếng thở muốn bứt hơi, của kẻ bị rượt đuổi. Tiếng phừng phựt liên tiếp, tiếng nói:
“Thôi Tân… Thôi… Đừng… Đừng mà Tân…”
Tiếng nói khác:
“Ôi Liên. Liên. Tân yêu Liên chết được…”
Lúc ấy mười một giờ rưỡi khuya. Anh rời ngôi nhà, đi trên con lộ. Một chiếc xe tải lao nhanh, phút chốc mất dạng sau đám bụi đỏ bốc lên, thấy rõ dưới ánh sáng ngọn đèn gắn trên cây cột bê-tông thẳng đứng, chơ vơ bên con lộ.
Không, không, anh tự nhủ, nơi chốn này không có thật, thị trấn này không có thật, như nó chưa từng có tên. Hay đây chính là thị trấn miền đông của nhà văn nọ, một nơi chốn anh chưa bao giờ tới?
Cô gái chỉ là một tên gọi, Liên, chủ nhân đích thực của ngôi nhà, ông H. bảo vậy, anh đang ở trọ nhưng không phải trả tiền.
Anh đã viết trong thư gửi ông H., người bảo trợ anh, ở thành phố:
“…Có lẽ tôi thất bại rồi, ở đây tôi đói lả tiếng động. Tại sao lại vắng lặng đến như vậy? Bằn bặt. Thảng hoặc tiếng chim đơn lẻ trong vườn có cất lên cũng lập tức lọt thỏm vào trống không. Vậy mà ông bảo tôi cứ thanh thản ở đây. Ông bảo tôi sẽ gặp cô em họ của ông, Liên, mà ông luôn gọi là người phụ nữ định mệnh. Tôi đã chờ đợi. Tới bây giờ, lúc tôi đang viết những dòng gửi ông đây, tôi chỉ chờ đợi một điều duy nhất, tiếng động. Tôi chỉ cần thiết nghe tiếng động, như cây cỏ cần thiết những giọt sương. Tôi chỉ cần thiết có vậy để sống.”
*
Anh ngụ trong một căn phòng của ngôi nhà có ba căn phòng. Ngôi nhà mái ngói âm dương thấp xoải, cũ kỹ, hiu quạnh như nơi chốn của nó, một thị trấn của một huyện lỵ heo hút mù bụi, một thị trấn hình như không có tên. Anh chợt nhớ tới một nơi chốn, thị trấn miền đông của nhà văn nọ. Anh ngụ tại đây, ông H. bảo, để thay mặt ông gần gũi bà cụ, mẹ ông. Bà cụ sống trong ngôi nhà cách xa ngôi nhà này chừng nửa cây số, có gia nhân chăm sóc.
Tất nhiên ông H. có thư phúc đáp:
“…Chú không ở đây thì cũng chẳng có nơi nào khác thích hợp hơn với chú nữa…”
Anh thầm hỏi, tại sao ông H. không nói thẳng ra rằng, anh đã cùng đường, chẳng còn chỗ dung thân? Ông H. lại trưng ra sự tệ hại của tiếng động, tiếng ồn ở thành phố là hoàn toàn xấu đối với sức khỏe:
“…Còn như chú phải canh giữ vườn trái ruộng nương sợ chim choc phá hoại, tôi sẵn sàng mua về máy phát tiếng thu thanh heo bò rống ở lò sát sinh, để xua đuổi chúng. Hay tôi biểu ở dưới ấy dẫn điện vô nhà, mua máy cát-xết để chú nghe nhạc…”
Anh nghĩ ông H. có thể tiếp tục: nếu không có hoa để ngắm, ông sẽ gửi về đây đủ loại hoa giấy, hoa vải, hoa ni-lông…
Anh được sắp xếp chỗ ở trong căn phòng chính giữa của ngôi nhà. Căn phòng phía trái là nơi ở của Liên. Cô gái không thể xa rời thêm một gang tấc nào, ngôi mộ người cha ở phía trái đó. Phía bên phải, người em họ khác, vai em của Liên, ông H. bảo, cũng bất chợt về trú ngụ như Liên. Anh ta chỉ ở căn phòng phía bên phải ấy, không thể xa rời một phân ly nào cây đại hồ cầm của người quá cố thân yêu nhứt với anh ta, để lại ở chỗ này.
Anh chưa hề thấy ngôi nhà tương tự nào bố trí ngăn chia đều đặn, riêng biệt rạch ròi như ngôi nhà này. Những vách ngăn bằng gỗ xưa cũ đã bóng ngời, hẳn được thiết lập như vậy từ bấy lâu rồi. Giống phòng trọ trong nhà nghỉ sang trọng, anh có thể gọi ngôi nhà này là khách sạn của một vùng quê vắng lặng, bặt thinh.
Anh ngồi trong căn phòng được sắp xếp dành cho mình, hồi nhớ người thầy dạy tiếng Pháp, ông T., hơn anh vài tuổi. Khách sạn X ở thành phố, ông cư ngụ sau khi rời trường đại học nổi tiếng của Pháp quốc, trở về quê hương. Ông dạy môn tiếng Pháp tại một trường trung học nổi tiếng bậc nhất của thành phố, chỉ chọn một người học trò, và một tác phẩm của một tác giả ngoài chương trình. Anh biết ông T. là kẻ bị ám. Nhân vật của tác phẩm ấy, Roquentin, người học trò ấy, có ý nghĩa đối với ông.
– Hình như cậu có làm thơ?
Ông nhìn và biết anh có làm thơ. Theo đề nghị của ông, anh viết hai dòng thơ trong bài thơ đầu đời của anh, trên trang giấy để trống của tác phẩm ấy, quyển sách không rời ông:
Hai bàn tay mười ngón hao gầy
Nghe nỗi đau rừng ứa nhựa cây
Ông nói, rất nhiều đêm, ông nằm ngó mãi mảng trần hoen ố, căn phòng câm nín, cũng may còn nghe tiếng kêu vo ve của mấy con muỗi bay loanh quanh bốn bề vách ngăn.
Anh nhớ lại hành lang tối bẩn chật hẹp trước cửa căn phòng khách sạn, bốc lên mùi tanh nồng, mùi ẩm mốc. Ông nằm cứng đờ, xám ngoét bên lọ thuốc còn sót vài viên, ngay dưới chân giường.
Con chó anh dẫn theo, cùng về đây với anh được mấy ngày, tự dưng bỏ đi đâu mất biệt.
Anh không ngủ được, nhìn lên, nhìn lên mãi, mái ngói âm dương, những vì kèo cũ đen, anh biết chúng vẫn dàn trước mắt, trong bóng tối ngôi nhà.
*
Anh chợt nghe tiếng động, tiếng rên nhỏ như sợi dây kim loại đang rung. Anh vùng trở dậy, ngó quanh khắp căn phòng. Không, không phải con chó trở về, rên nhỏ bên giường như đêm kia.
Anh nhớ lại, thư ông H. vẫn nhắn nhủ, Liên, Liên, người phụ nữ định mệnh ấy… Số phận sẽ dành ân sủng cho cô gái… Liên, cuối cùng sẽ gặp chú, dưới đáy vực cô đơn, chú đã từng thấy vậy, cũng như Liên…
Tiếng phừng phựt đột ngột. Ai đấy vừa kéo mạnh phím đại hồ cầm, ngay trong căn phòng phía bên phải của ngôi nhà. Tiếng rên bất chợt, ngắn ngủi, lụi tắt, lại nổi lên từng hồi, như từ một âm vực sâu kín nổi lên từng hồi, rung trong không gian trống vắng.
Bỗng chốc tiếng thở hổn hển, tiếng thở muốn bứt hơi, của kẻ bị rượt đuổi. Tiếng phừng phựt liên tiếp, tiếng nói:
“Thôi Tân… Thôi… Đừng… Đừng mà Tân…”
Tiếng nói khác:
“Ôi Liên. Liên. Tân yêu Liên chết được…”
Lúc ấy mười một giờ rưỡi khuya. Anh rời ngôi nhà, đi trên con lộ. Một chiếc xe tải lao nhanh, phút chốc mất dạng sau đám bụi đỏ bốc lên, thấy rõ dưới ánh sáng ngọn đèn gắn trên cây cột bê-tông thẳng đứng, chơ vơ bên con lộ.
Không, không, anh tự nhủ, nơi chốn này không có thật, thị trấn này không có thật, như nó chưa từng có tên. Hay đây chính là thị trấn miền đông của nhà văn nọ, một nơi chốn anh chưa bao giờ tới?
304Đen – Llttm
No comments:
Post a Comment