Gói
Măng Khô
Khi tôi thực sự đến Quán Chim để chôn chặt cuộc đời bằng đôi chân đất
thì Quán Chim không còn chim nữa. Chỉ còn một cây dầu cao khỏng đứng một mình ở
góc chợ. Chẳng hiểu vì sao nơi nầy có địa danh như thế, trong lúc tên thật là
làng Thái Thiện nằm ngay ở ranh hai tỉnh Phước Tuy và Biên Hòa trong tổ chức
hành chánh trước 1975. Đi tắm biển Vũng Tàu du khách thường ghé lại Long Thành
mua trái cây, nghỉ xả hơi rồi đi tiếp 25 cây số nữa thì gặp nó. Quán Chim.
Trước đây chim đủ loại được chưng bán dọc tỉnh lộ vào ngày cuối tuần; chim đã
làm thịt bán từng xâu từng rổ.
Khi tôi đến thì không còn gì nữa, chỉ
có những gánh khoai mì chờ đưa lên xe một cách lén lút đem cho dân Saigon cái
món sâm của thời cách mạng mới. Nơi đây cũng có máy xay lúa, cả làng phải gánh
thóc đến mà chà. Từ nhà tôi đến chợ mất ba cây số.
Đây là nơi quần hội của cả bốn ấp trong
xã; người mới đến nhiều hơn người cũ. Có những cô gái đẩy những chiếc xe thồ mà
mặc chiếc quần jean nhung màu rượu chát đỏ còn mới nguyên kèm với chiếc áo rách
vai vá vội. Có những chàng thanh niên chừng 30 tuổi, chiếc nón lá rách móc vai
thưởng ngoạn ly café bít tấc một cách trang trọng như ngày còn ngồi ở
Continental hay La Pagode Saigon. Cũng cùng trên những chiếc ghế dài ấy, có cả
Năm Ngoãn, Sáu Lô hay Tư Bèo... cho luôn cặp dò lấm bùn lên mặt gỗ, ngồi chồm
hỗm theo kiểu nước lụt như muốn chờ ai đến trình xin một chữ ký rồi cười khoái
chí vì vừa ban một ân huệ.
Cứ nhìn phố chợ chạy dài chừng 100 mét,
ta có thể hình dung sinh hoạt xã hội một cách đầy đủ. Đây là cái thau pha nước
và dầu, không bao giờ tan loãng dung hợp nhau. Như ở các chàng thanh niên kia,
quá khứ có mất đi chỉ còn đọng lại ở cái nón rách thì nó cũng còn ở nơi cung
khách vân vê cái thìa rồi để nhẹ xuống bán. Đó là mới nhìn bên ngoài. Biết đâu
bên trong họ còn cả mọi thứ trầm kha.
Một thiếu phụ còn trẻ lắm vói qua bờ
rào xé trộm mấy mảnh lá chuối của nhà ai để lót vào thúng rồi trở ra mé đường
nhựa. Nơi đó có một bãi phân bò tròn trĩnh như mặt trăng mười bốn, còn nóng hổi
như cái bánh đúc vừa đưa khỏi bếp, màu đen như chiếc phèn la dùng trong làng xã
cũ. Bà ta nói: "Bầu bí nó thích phân bò", rồi như khóc, nói tiếp:
@******
Nhà tôi đưa cho tôi một gói măng khô.
Tôi dục ông đi nhanh, càng nhanh càng tốt, còn không nhỡ như người ta kêu trở
lại thì biết làm sao. Mà ông cứ dừng lại, mở cho được cái bao bố lấy cho được
gói măng.
- Em ạ, ông nói, cả một gánh măng
mà phơi ra còn ngần ấy. Món quà cho em và các con sau bốn năm.
Tôi thương quá mà phát cáu: "Sao
anh không ăn đi; phơi cất; nhịn đói".
Nhà tôi ngơ ngác nhìn trời đất như lạ
lắm, thỉnh thoảng ngồi xuống lấy cái kẹp tre xỏ quai dép sút vào cái đế bằng vỏ
xe. Tôi nhìn chồng tôi. Cả cái khuôn mặt ngày nào chỉ còn lại mấy sợi râu mép
đỏ như râu tôm luộc, đỏ như râu bắp. Mấy sợi râu màu hoe như râu Mỹ râu Tây
trên khuôn mặt gầy ốm. Những sợi râu đỏ vì thiếu ăn. Những sợi râu chỉa ra như
các cần ăng ten của người máy trong các phim khoa học giả tưởng. Những sợi râu
màu vàng hung như màu những lát măng khô.
Đường từ trại cải tạo ra bến xe hoang
vắng. Những bụi tre nho nhỏ chạy theo hai cây số hương lộ rải đá. Chỉ có những
cặp vợ chồng mới gặp nhau sau bao ngày chờ đợi. Ngày trở về, may quá, chồng tôi
không què quặt, trở về cọng thêm gói măng khô với mấy sợi râu như râu tôm luộc.
Bỗng nhiên nhà tôi giật cái giỏ xách
trong tay tôi, xé cái bao măng lấy ra một tờ giấy. Duỗi thẳng tay ra xa mà đọc
vì không có kính, rồi đọc lớn:
Một lời thỉnh cầu tha thiết: xin trao gói
nầy cho Nguyễn Thị Lý, 218/3 hương lộ 3, ấp 2, xã An Thái, quận Bình
Thạnh, Gia Định. Xin tìm mọi cách trao cho Lý gói này. Lý, vợ tôi, vợ của Võ
Thái Hóa. Chữ ký và chữ viết của Lý có ở mặt sau tờ giấy nầy. Đa tạ 1979.
Đó là tờ giấy học trò tôi dùng viết thư
cho Hòa. Thư thì viết mấy chữ cho đúng khuôn phép, bảo chồng yên tâm học tập.
Tôi bớt sợ chồng tôi bị kêu trở vào trại nên ngồi ở gốc cây cho đỡ mỏi chân.
Hòa ngồi bệt xuống đất một cách dễ dàng, duỗi thẳng chân. Quần áo tôi dẫu sao
cũng tươm tất, có đôi dép nylon, tôi thấy nhà tôi rách nát quá mà còn để giữa
hai chân cái bao bố túm miệng. Rõ là một kẻ ăn mày với mấy sợi râu ngô trông
chẳng giống ai. Tôi chợt nhớ có đem theo cái áo sơ mi ngắn tay nên bảo chồng
thay cho dễ coi hơn. Hòa cầm cái áo bất động, xếp lại bỏ vào túi xách rồi nói:
- Còn sá gì nữa bà ơi. Mà thay áo giữa
đường, người ta nói mình thay hình đổi dạng, thêm rắc rối.
Dạo ấy trời vừa hết mưa. Tre trổ nhiều
măng vòi. Tôi đứng dậy hái một nắm đem về ướp chua nấu canh. Nhà tôi vỗ mạnh
vào bắp chân và nói:
- Nó to thế nầy. Nhiều lắm nhưng không
dễ gì hái. Em tưởng dễ mà bẻ một mụt măng rừng à. Mới nhú ra một tý tụi nó chụp
ngay. Người đông như kiến. Của ít người nhiều. Những cây măng gần thành tre còn
trèo lên bẻ đọt mà ăn.
Tôi hỏi vậy sao có cả gánh mà làm khô
được một gói. Nhà tôi cho biết sáu tháng trước người ta đưa anh và một nhóm nhỏ
đến một khu rừng tre phát hoang. Hòa nói:
- Muốn làm khô, phải dùng măng non.
Phần già anh đã ăn, ăn phần già lâu tiêu hơn nên lâu thấy trống bụng. Anh nhớ
em thường nấu măng khô với bún tàu, với cải tầng ô. Anh sấy chứ không phải phơi
nắng đâu. Củi thiếu gì, anh đốt lấy than rồi sấy. Không có mùi khói đâu. Trong
rừng rậm, lửa ấm là hạnh phúc mà ngồi trăn trở lát măng cho em cho con thấy ấm
lòng không tả.
Hòa đứng phắt dậy chạy lại bụi tre, hai
tay nắm chặt vào nhau như đang cầm con dao chém ngang chém dọc cả chục lần, rồi
ngã quỵ. Tôi hốt hoảng chạy đến đỡ dậy. Hòa cười:
- Anh vừa diễn xuất cho em một phần nhỏ
cái màn đốn măng. Nhiều lúc mệt lã anh nghĩ sẽ chết thật khi tay vói được mụt
măng. Cái bụi tre trước mắt em nghĩa lý gì. Tre trong rừng chằn chịt. Thấy nó
đấy mà chặt cả ngàn nhát chưa vào được. Gai tre, cành tre thì em biết rất dai.
Còn rựa hả? Rựa bọn anh rèn lấy, rèn bằng thứ sắt tệ nhất, bất cứ cọc sắt nào
cũng được, đập bẹp, đốt lửa mà rèn. Dao hả, đúng cái dao để đạt chỉ tiêu số
cây, số tre đem về nạp. Em cứ tưởng tượng như lấy con dao cùn trong bếp mà cạo
râu. Hừ, anh cứ nghĩ có ngày sờ được mụt măng rồi chết luôn cho lá tre rơi xuống
phủ kín làm mồ.
Một chiếc xe lôi dừng lại mời. Chúng
tôi từ chối vì không có tiền, một phần còn sớm mà đi bộ cũng vui, lâu ngày
chẳng đi bên nhau.
- Biết có thể chết vì kiệt sức, tôi
nói, sao anh cứ hái măng cho nhiều, phơi khô, sấy khô. Tội nghiệp anh quá. Ăn
làm sao cho đành gói măng nầy.
- Măng tre có gì bổ béo, chỉ để cho món
ăn có cái gì dai dai cưng cứng. Mà ăn nhiều lại độc. Luộc không kỹ hai nước, ăn
vào có thể say mà chết. Măng rất độc, nó làm giảm lượng calci trong người nên
mỏi xương lắm. Anh biết chứ. Vào lúc đói thì cái gì cũng ăn. Đó là chuyện
thường tình như ăn cỏ ăn lá. Nhưng việc hái măng nó kỳ thú. Anh muốn nói cho em
nghe. Anh đã bắt đầu bằng màn diễn xuất hồi nãy ở gốc tre kia.
Tôi thấy mừng vì nhà tôi còn minh mẫn
tuy áo quần rách nát, mặt mày hom hem, râu ria lởm chởm. Tôi im lặng lắng
nghe:
- Hôm nằm mệt nhừ ở bụi tre, anh thấy
mình vô lý. Một calorie vào lúc thiếu ăn rất qúi. Anh đã đổ hết sức lực để đổi
lấy một thứ chả cho anh một năng lượng nào. Tính cho kỹ việc nhai măng cũng tốn
thêm calorie. Làm một bài tính thì thấy mình thua thiệt. Nhưng anh vẫn xông vào
bụi tre, quyết hái cho được mụt măng. Nhiều lần; nhiều lần.
- Anh phơi khô cho vợ, cho con. Em làm
khổ anh.
- Không, không phải thế. Em? Con? ồ chỉ
là huyễn mộng, không thực như sương núi, không thực như hơi nước. Chỉ là huyễn
mộng. Anh còn tệ hơn một thủy thủ đa tình viết thư cho người yêu bỏ vào chai
thả xuống biển, em còn tệ hơn cô tình nhân bé nhỏ trên bờ.
Tôi thật ngậm ngùi, bây giờ mới biết
tại sao Hòa bỏ vào gói măng khô mấy chữ sau bức thư của tôi, nhờ bất cứ ai trao
cho tôi gói măng khô. Nhưng tôi chưa hiểu tại sao Hòa tiếp tục đốn măng. Chồng
tôi giải thích:
- Hành động xem như phi lý ấy cho anh
biết anh đang còn sống. Có thể nói cho dễ hiểu tuy không đầy đủ, đó là bản năng
sinh tồn, cái bản năng làm cho chúng ta lao đầu vào cuộc sống, vào cái sống cho
dù quá khổ đau. Ở vào một nơi rất lạ, nơi mọi tư tưởng đều đảo ngược, nơi con
người sống như ngoài trọng lực, nơi con người mơ thành con kiến để đi ra đi vào
tổ kiến, mơ được thành con mối sống trong tỏ mối ở gốc cây hắn dựa lưng trong
rừng, mơ thành trái gì đắng rụng đầy mái tranh trên cái xác buồn hiu, ở vào nơi
ấy, ở vào nơi ấy, Lý...
(Nhà tôi không nói nữa. Tôi tiếp tục
đi. Bỗng nhiên tôi quay mặt nhìn Hòa. Hòa đang đưa tay áo dơ bẩn chùi má bên
trái, má phải vẫn còn một giọt nước mắt đang chảy.)
"Ở vào nơi ấy anh không còn một ý
nghĩa nào để sống. Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một, thân ta rẻ rề.
Anh không phải là thiền sư ngồi quay mặt vào tường để gạt bỏ mọi sự ra ngoài
trí tưởng. Anh vẫn có hai cảm giác khác nhau khi ăn một miếng thịt và một miếng
rau. Anh vẫn còn thương nhớ em khi thấy hai con chim rỉa cánh cho nhau.
"Hành động lăn xả vào bụi tre
trong hơi tàn mệt mỏi cho anh thấy mình đang còn muốn sống. Cảm thấy qúi cái
thân xác, làm anh bỏ những điều người ta dạy về con người. Lúc ấy anh thấy linh
hồn nằm trong bao tử; lòng bàn chân là đầu não vì nó báo hiệu đường có nhiều
gai.
"Ồ, cái mụt măng như cái ngà voi, nó nằm sau những lớp gai đan chéo. Nó hấp dẫn, nó tập cho anh trở lại cái tha thiết nồng nàn, tha thiết những thứ tầm thường; đúng, cái mụt măng nó cũng tầm thường trong rừng rậm hay giữa chợ. Anh tha thiết nó như anh tha thiết cái bao tử, mà trong bao tử có linh hồn, có lương tri của con người.
"Những nhát dao anh chém vào bụi
tre là những nét đục trên tảng đá, trên khối gỗ để chạm một hình tượng, để vật
thể hóa thế giới tâm linh. Anh gục ngã, anh kiệt sức như điêu khắc gia gục ngã
dưới chân tượng mình mới khai sinh. Tảng đá ấy, khối gỗ ấy, bụi tre ấy đã được
đục đẽo thành một hình tượng. Hình tượng ấy là mụt măng. Ồ mụt măng trắng ngà,
to bằng cái bắp chân. Mụt măng ấy chính là anh cũng như hình tượng ấy chính là
điếu khắc gia vậy".
Chồng tôi để cái bao bố xuống đất, móc
trong túi cái gói nylon, lấy một nhúm thuốc rê rồi vấn trong mẫu giấy báo, ngơ
ngác không kiếm đâu ra lửa để hút. Tôi trở về với thực tại để nhớ rằng có đem
theo cho chồng một gói thuốc hiệu Đà Lạt và một hộp diêm quẹt. Tôi quên lững
cũng như tôi quên đưa cho chồng chiếc áo sơ mi còn khá lành thay cho chiếc áo
rách bấn trong tù.
Đằng xa đã hiện ra mấy nóc nhà phố chợ,
khu bến xe. Phần còn sớm, phần mỏi chân, bọn tôi ngồi nghỉ, cũng gần một bụi
tre bên đường. Mặt khác tôi sợ đường ngắn không đủ cho chồng tôi nói nốt ý tưởng
về cái mụt măng, vã lại tôi thích nghe chồng tôi nói, lâu lắm không nghe tiếng
nói thân yêu ấy. Đến chợ và nhất là trong xe thì thế giới ấy của tai vách mạch
rừng, của thời đại sợ hãi. Hơn bao giờ hết, lúc nầy là lúc "bụi tre có
mắt, nồi đồng có tai".
Tôi ngậm ngùi thương cảm nhưng cũng
mừng thầm vi chồng tôi chưa loạn trí, ăn nói còn mạch lạc. Con người muôn thuở
trong anh vẫn còn, không thích chửi rủa những chuyện vụn vặt. Hòa ngồi trầm
ngâm hút điếu thuốc rê, hút xong xé tàn thuốc vứt mẫu giấy và giữ chút thuốc
còn lại bỏ vào bao nylon. Hòa vẫn trầm ngâm, quả đúng như cái tên Thái Hòa cha
mẹ đặt cho. Từ lúc ra trại đến giờ chồng tôi chưa hỏi về các con, ngoại trừ câu
"món quà cho em và các con" khi đưa cho tôi gói măng khô. Tôi mở gói
thuốc Đà Lạt đưa cho Hòa một điếu và nhắc khéo bằng cách nói các con xin ngoại
gói thuốc đem cho bố. Hòa vẫn ngồi yên, lại vỗ vào bắp chân mà nói:
- Ồ nó to như thế nầy, to như bắp chân,
ồ cái mụt măng nó to như bắp chân.
Tôi đâm sợ chồng tôi mê dại, ám ảnh bởi
mụt măng trắng ngà mà anh xem như chính anh, chẳng khác bước tượng chính là
điêu khắc gia. Tôi vững tâm khi thấy mắt Hòa vẫn sáng, khuôn mặt tuy tiều tụy
nhưng không có gì ngây dại, mấy sợi râu bắp ngô vẫn còn linh hoạt như râu con
mèo tinh thông. Hòa tiếp:
- Anh thương cái mụt măng, anh nhớ cái
mụt măng. Gói măng khô anh để ở đầu nằm. Những đêm không ngủ được anh cầm đưa
lên mặt ngửi thấy mùi măng khô, đưa sát vào môi như ôm hôn nhẹ má em. Gói măng
khô, người bạn đồng hành trên đoạn đời vô định, quảng đời mà vợ con là huyễn
mộng, huyễn mộng không thực bằng gói măng khô để ở đầu nằm. Lý, anh muốn giữ
gói măng khô.
Tôi chẳng hiểu gì, đưa mắt nhìn chằm
chặp nhà tôi. Hòa đưa đôi tay dụi mắt vừa nói:
- Ra hỏi cổng, anh không còn thấy em là
huyễn mộng. Em dục anh đi nhanh, anh đưa em gói măng khô, cái mà anh cho không
phải là huyễn mộng để tăng cường điều không phải là huyễn mộng nơi em. Chỉ nửa
giờ sau, anh lại thấy em huyễn mộng như bao giờ.
- Anh nói gì? em vẫn yêu anh. Bốn năm
anh xa nhà em vẫn chăm lo cho con; nào có thay lòng đổi dạ.
- Không, không phải chuyện ấy. Hồi nãy
em bảo anh thay cái áo, anh không chịu. Tại sao? (Chồng tôi đứng dậy, lấy tay
chỉ vào ngực mình). Hòa nầy vừa ra một nhà tù nhỏ để vào một nhà tù lớn. Có gì
khác đâu mà thay áo thay quần.
Hòa lấy trong túi ra tờ giấy mà họ mới
cấp, đọc cho tôi nghe: Nay chấm dứt thời gian cải tạo trong trại thiếu
úy Võ Thái Hòa, số quân (tôi không nhớ) của chế độ miền Nam cũ". Chồng
tôi xếp tờ giấy bỏ vào túi nói:
- Họ giữ đầu cán. Họ chơi chữ rất khéo.
Em nhớ hai chữ trong trại, nghĩa là còn cải tạo ở địa phương, ở mỏ than
Nông Sơn, Hòn Gay, Cẩm Phả ...Ôi huyễn mộng nuôi em từ đây. Ha ha, người ta
chơi chữ thì mình làm thơ.
Tôi dục về và xoa dịu Hòa:
- Chuyện gì đến sẽ đến, hơi đâu mà lo.
Em xin được miếng đất ở Quán Chim, đất khô chỉ trồng khoai mì. Bán đồ đạt em
mua được ba công ruộng hơi xa một chút. Cái chòi tranh nho nhỏ cũng được, anh
về kiếm tranh tre nới rộng ra. Gặp thời thế thế thời phải thế.
Trên đường đến bến xe, chồng tôi cứ lẩm
nhẩm nhắc đến mụt măng, tôi thực sự ghen tức với vật vô tri ấy. Nửa đùa nửa
thực tôi nói:
- Được về rồi, ông cố quên giùm tôi cái
bụi tre ấy, còn chỗ mà nhớ giùm tôi, thương giùm tôi. Khổ quá ông ơi.
- Ai lại đi ghen với bụi tre. Anh đã
nói với em chính nhờ nó mà anh tha thiết một cái gì trên cuộc đời, nó tập cho
anh tha thiết trở lại. Nó nhắc anh nhiệm vụ phải giữ một niềm tin như chiếc
thuyền độ mình qua cơn sóng gió.
@
Suốt đoạn đường nhựa gần hai cây số,
tôi hoàn toàn giữ yên lặng cho chị Lý kể hết câu chuyện. Tôi chưa hiểu tại sao
phân bò lại móc qua gói măng khô nhưng không dám hỏi thẳng. Vừa rẽ vào con
đường đất, chị Lý để cái thúng xuống, tôi cũng đặt bao trấu trên vai xuống đất
và hỏi khéo:
- Chị đi bán cái gì ở chợ mà đem cái
thúng không về?
Người đàn bà duyên dáng ấy cười tự
nhiên:
- Sao nói là thúng không? Có bãi phân
bò. Nói chuyện quên thấy nó nặng. Bây giờ phải nghỉ mà thở một chút. Đi đâu tôi
cũng đem cái thúng không, có gì lượm bỏ vào mang về như hôm nay được bãi phân
bò đem về trồng bầu. Các bà đi đâu cũng có giỏ xách, nhiều lúc không có gì phải
bỏ bỏ cục đá chẳng hạn cho nặng. Thời nay thì đem cái thúng có khi dùng, cùng
không thì cái tay khỏi trống trải. Tôi ra xã đưa cho nhà tôi gói bầu khô. Tôi
có ý xem có anh trong đám công tác hay không, mong nhà tôi có người quen, mà
không thấy, rồi gặp anh ở chợ. Họ đi rồi.
Chị Lý ra chiều suy nghĩ, có nét buồn,
nói:
- Đáng lẽ tôi không đi. Đã nhờ thằng em
đi rồi, tôi chạy theo gọi vào. Không biết có sao không mà tôi lo quá. Hôm qua
ngoài xã vào kêu nhà tôi công tác mười ngày nông trường huyện ở Bầu Bàn, ăn
uống tự túc ba ngày sau đó họ cung cấp. Tôi lấy gói bầu khô treo trên bếp chia
làm hai. Một nửa kho mặn bỏ vào keo nhựa, phần kia gói cho anh mang theo, với
bốn lon gạo, chai nước mắm. Gói bầu khô để kho với cá, Bầu Bàn họ nói có nhiều
vũng cạn dễ tát bắt cá lòng tong.
Chúng tôi đi tiếp trên con đường nửa
khô nửa ướt. Nhà chị Lý cùng một lối với nhà tôi. Câu chuyện tiếp:
- Nhà có ba đồng nên chiều qua tôi qua
chùa mượn cô trị sự năm đồng để sáng nay đưa cho nhà tôi bỏ túi. Tôi nói tiền
mượn nên Hòa chỉ lấy ba đồng và bảo tôi đi trả ngay để các cô khỏi ghi sổ xuất
nhập mất công. Tôi qua chùa. Sau khi trả tiền, tôi ở lại giúp phơi mấy thúng
cải để muối dưa. Xong việc tôi vội chạy về nhà lo cho chồng đi công tác. Đến
nơi, nhà tôi đã đi rồi.
"Trên bàn có cái gói gì bọc giấy
báo. Thấy lạ tôi mở ra xem. Đó là gói bầu khô hôm qua tôi bỏ vào bọc nylon.
Giữa hai lớp bao bì ấy là mấy chữ nhà tôi viết sau lá thư tôi gởi, tức là tờ
giấy nhà tôi bỏ vào gói măng khô tôi nói với anh hồi nãy. Biết là gói bầu khô
tôi gói lại, gọi ngay thằng em đem ra xã, sợ chồng tôi không có gì ăn. Nó đi
rồi, tôi thắc mắc tại sao chồng tôi lại bỏ tờ giấy ấy vào. Tại sao gói giấy ấy
lại còn đó? Cố ý hay vô tình để quên? Nhà tôi linh cảm điều gì chăng? Tôi chụp
cái thúng mà tưởng là cái nón, chạy theo thằng em vừa chạy vừa kêu. Tôi muốn
gặp nhà tôi. Đến xã tôi chỉ đưa gói bầu khô, tảng lờ như không biết gì bên
trong. Tôi cố tránh bối rối cho cả hai. Ít phút sau họ lên xe."
Tôi xoa dịu chị Lý:
- Nông trường Bấu Bàn rộng lắm. Tôi đi
rồi, một tháng trước khi anh chị đến đây. Họ cần nhiều người. Biết đâu mai tôi
đi đợt tiếp. Nếu đi tôi sẽ cho chị hay. Không có chuyện gì đâu. Tôi nói nhà tôi
qua thăm chị và các cháu.
- Cảm ơn anh chị. Tôi bối rối ghê lắm.
Gặp bãi phân bò tôi hốt về trồng bầu phơi khô. Gói bầu khô làm tôi nhớ lại gói
măng khô. Đang lúc bối rối tôi gặp anh, tôi nói liên hồi để trấn áp sự sợ hãi.
Đáng lý nói phần nầy trước thì anh không bỡ ngỡ.
@
Đến lối rẽ vào nhà, chị Lý để thúng
phân bò xuống đất. Tôi cũng nghỉ chân. Chị Lý xoay lưng về phía tôi, tay thò
vào bụng xắn cái quần đen lên cao. Tôi nhìn xuống đôi chân. Hai gót đầy đặn
nhưng đầy những vết nứt theo chiều đứng, những vết nứt làm chỗ cho bùn đen bám
vào nổi bậc trên da hồng trắng. Đôi gót chân như hai miếng gỗ có vân.
Nhà tôi đã đứng sẵn ở cỗng cho biết hôm
sau tôi đi công tác mười ngày. Nhà tôi có vẻ lo. Tôi nói:
- Anh cũng đoán thế. Sáng nay anh Hòa
đã đi rồi. Anh vừa cùng chị Lý ở ngoài chợ đi về. Em qua nói cho chị biết, có
gì gởi cho Hòa thì sáng mai đem qua.
Nhà tôi bước đi; tôi nhìn kỹ hai gót
chân. Cũng có những vết nứt vì bùn phèn như hai gót chân của chị Lý.-
Tôn Thất Tuệ
Cựu SV ĐS 10 QGHC
Tôi chỉ biết
anh Bé chết khá sớm sau 1975. 1984, tôi đến Mỹ thì nghe anh đã chết và người
phó trước kia trung tá Thiệu cũng đã lìa đời. Nhưng "đời" (trong
ngoặc kép) đã phê phán khá nặng là làm nhụt chí trở lại cố quốc vì anh đã có
lần khuyên bà con tạo dựng cuộc sống mới, tạm nhận nơi đây thay chốn quê nhà.
Lúc ấy phe mình rất lý tưởng, lớp người qua trước đã đủ năm năm lưu trú mà xin
nhập tịch, nhưng dấu nhẹm như mèo dấu. Bây giờ thì "đời" đã khác,
tiếp tay phá nát ngôi nhà xưa. Nhà tôi cũng tuổi Mậu Tý như Mừng. Vợ chồng tôi
vô cùng thương mến Lý. Truyện ngắn Gói
Măng Khô mang rất nhiều suy tư và tâm thức của tôi; nhân vật chính
kể cho vợ nghe giữa thời tao loạn. Tôi sẽ gởi bài nầy nhờ các anh đăng để người
thật và người trong truyện đối chứng những đau thương đời người.
Viết từ vùng núi Georgia USA,
30.07.2017
TTT
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment