Bắc/Nam
Sài Gòn năm 1965. Một áp phích tuyên
truyền ở trung tâm thành phố kêu gọi nhân dân “Đoàn kết, bảo vệ miền
Nam, giải phóng miền Bắc”
Tôi thường rơi vào ý nghĩ về các đấu
thủ – “cách biệt nhưng bình đẳng” – mượn một câu nói chính trị nguy
hiểm. Khi còn bé tôi luôn đặc biệt yêu thích những bộ phim Thuyền
trưởng Hành tinh, Thủy thủ Mặt Trăng, Năm Anh Em Siêu nhân, vì mỗi
phim chứa một tình tiết hoặc một hành động trong những hoàn cảnh để
những người hùng xuất hiện: Đội trưởng Ô nhiễm và biệt đội “người
hành tinh” độc địa của gã, Bốn chị em của Trăng Đen, hoặc Những
Biệt Kích Đen. Tôi thấy một cảm giác cân bằng cố hữu trong các
đối thủ, cân bằng vô cùng mỹ mãn, như trong luật âm-dương vậy.
Khi tôi lớn lên, sự ham thích những
mối tương quan này mở rộng ra nền chính trị quốc tế, đặc biệt những
nước đối đầu về ý thức hệ, bị chia cắt dưới chỉ thị bên ngoài, như
Nam-Bắc Triều Tiên, như Đông-Tây Đức…
Cái thời nước Việt Nam tồn tại như
hai thực thể cách biệt đương nhiên có sức nặng đặc biệt trong tâm trí
tôi, chắc nó cũng nặng nề trong tâm trí nhiều người Việt Nam hải
ngoại. Dù sao, sự tồn tại song đôi này – hai bên chống đối nhau, một
bên muốn tiêu diệt bên kia – một mình nó phải chịu trách nhiệm về
việc người Việt tan tác khắp địa cầu, sự nổ tung những photon con
người trong một trong những vụ đụng độ giữa chủ nghĩa cộng sản và
chủ nghĩa chống cộng.
Tôi sinh ra ở Mỹ; vào thời ấy tôi
không biết, tất cả những người Việt mà tôi từng gặp đều là cựu công
dân của Việt nam Cộng hòa (tức là Nam Việt Nam) hoặc như tôi biết,
Việt Nam. Không có sự lựa chọn, không có cái khác để lựa chọn. Lá
cờ vàng với ba gạch đỏ có ở khắp nơi, và là đại diện duy nhất của
Việt Nam mà tôi biết.
Quốc ca “đúng” và “sai”
Encarta Encyclopedia 97 cung cấp cho tôi gợi ý đầu tiên
về một sự thật khác, một Việt Nam khác, một Việt Nam “xấu” mà tôi
nhanh chóng học. Tôi nhớ hồi lớp năm đã làm một đồ án, nó yêu cầu
chúng tôi tạo một “hồ sơ đất nước,” một nước mà chúng tôi tự chọn.
Tôi tham khảo một đĩa CD-ROM bách khoa thư, và chẳng suy nghĩ nhiều,
tôi copy một lá cờ đỏ với ngôi sao vàng, lá cờ chính thức được nêu
trong mục về nước ấy.
Bà tôi là người đầu tiên “chỉnh” tôi,
mắng tôi khi Encarta chơi “Tiến Quân Ca”, quốc ca của Bắc Việt Nam
từ 1945-1975, và sau chiến tranh, là quốc ca chính thức của toàn Việt
Nam. Bà tôi bảo đó không phải là quốc ca “thật.” Thông tin trong mục
đó là “sai”. Khi tôi hỏi bà quốc ca “thật” là bài nào, bà âm ư “Tiếng
Gọi Công Dân” quốc ca của Nam Việt Nam từ 1948–1975, một giai điệu mà
tôi quen thuộc hơn nhiều.
Khi tôi hoàn thành đồ án, tôi yêu cầu má tôi xem qua công việc của tôi. Việc má tôi làm, không biết có ý định gì không, còn làm tôi sửng sốt đến tận hôm nay. Đáng lẽ bảo tôi bỏ cái hình vẽ cờ đỏ sao vàng ấy đi, thì bà bảo tôi vẽ thêm lá cờ vàng ba gạch đỏ của Nam Việt Nam vào bên cạnh nó, thể hiện hai lá cờ có giá trị pháp lí ngang nhau.
Tôi phải mất ít nhất hai thập niên để
nhận ra điều ấy, nhưng cử chỉ đơn giản của má tôi vừa có tính giáo
huấn cực kì mạnh mẽ, vừa là biểu hiện nỗi lo âu trí thức của tôi
về căn cước Người Việt hải ngoại. Nó là nếm trải đầu tiên của tôi
cái khái niệm về những chân lí mâu thuẫn nhưng cùng tồn tại. Lớn
lên, tôi không nghĩ nhiều về đất nước Việt Nam xa xôi, cái khuôn khổ
để suy nghĩ về nơi ấy và nhân dân của nó đã hình thành trong tôi
rồi. Chúng tôi, (những người miền Nam), là những người tốt, họ
(những người miền Bắc), là những người xấu. Mọi điều chúng tôi nói
là thật, mọi điều họ nói là dối trá. Tôi chưa bao giờ tự hỏi tại
sao chúng tôi lại phải sống trong một nước khác.
Một giáo sư Việt Nam tốt bụng, là
đồng nghiệp và thành viên một hội sinh viên tích cực hoạt động, đã
mở ra một kỉ nguyên mới trong kiến thức của tôi. Tôi bắt đầu đi những
bước đầu tiên tiến đến cân bằng và những bước tiếp theo tiến đến sự
thật… hay đúng hơn, những sự thật.
Bắc vào Nam
Ở Việt Nam, hai chữ “Nam tiến” có
nghĩa đen là “tiến về phương Nam,” nói về sự bành trướng của miền
Bắc về hướng Nam, từ châu thổ sông Hồng đến châu thổ sông Mekong. Hiện
tượng này tạo thành những khuôn mẫu lâu dài của Việt Nam giữa người
miền Bắc và người miền Nam. Trái với những người thích so sánh hình
dạng Việt Nam với chiếc đòn gánh tre hoặc hình chữ “S”, tôi thích
nghĩ về nước này bằng những thuật ngữ siêu hình hơn: một miền Bắc
hướng về quá khứ chảy tràn xuống một miền Nam hướng tới tương lai.
Châu thổ sông Hồng được coi như “nơi
sinh” của Việt Nam, địa điểm truyền thống về văn hóa và chính trị.
Miền Bắc và cư dân của nó bị coi là bảo thủ, khổ hạnh, giỏi xoay
sở và thiếu ăn. Cái này sinh ra một tính cách người Bắc đánh giá
cao tính dẻo dai, thích giao tiếp gián tiếp, sĩ diện (gắn với quan
niệm của người ta về danh dự và uy tín) và cách nấu ăn ít dùng
thảo mộc và gia vị.
Khi nhà nước này tiến vào lãnh thổ
của người Chăm và Khmer, một trung tâm quyền lực riêng biệt bắt đầu
phát triển ở miền Nam, thu hút những người bị kéo tới một cuộc
sống “biên cương” và một tồn tại đa văn hóa. Nhờ sự tự do lựa chọn,
cuộc bành trướng về phía Nam của Việt Nam kéo theo tinh thần phóng
túng, nhìn lên phía trước, tự do và đại đồng. Miền Nam phong phú
lương thực và tài nguyên; Sài Gòn, trước đây được biết dưới tên Khmer
‘Prey Nokor’ và hiện nay được gọi bằng cái tên Hán Việt ‘Thành phố
Hồ Chí Minh’ – thu hút khách thương từ khắp nơi trên thế giới, và
cuộc sống mọi mặt ở đây dễ dàng hơn và giàu có hơn.
Những hoàn cảnh lịch sử này đã xac
định là một người miền Nam có nghĩa là thế nào: chúng tôi nói dài
giọng một cách thoải mái, và theo một phong thái thẳng thắn bộc
trực, chúng tôi nấu những món ăn nhiều gia vị, tươi ngon và pha tạp,
chúng tôi có một nhãn quan tiến bộ, cởi mở và thân thiết với mọi xu
hướng của thế giới. Chẳng đáng ngạc nhiên rằng người Nam Việt Nam hồ
hởi đón nhận cách ăn mặc, phong tục và văn hóa Mỹ trong những thập
niên1950-1970.
Nhưng không phải chỉ có vấn đề các
nét đặc thù về tính cách và cách nấu nướng; tư tưởng cục bộ ở
dạng cực đoan của nó đã liên tục dẫn người Việt Nam đến chỗ giết
người Việt Nam. Nhà sử học Huy Đức mô tả Việt Nam như một ngôi nhà mà
“các bức tường xây bằng xương máu.” Đây không phải chỉ là một ẩn dụ.
Miền Bắc đấu với miền Nam
Cuộc nội chiến ở thế kỉ 17 hóa ra
là một điềm báo đầy mê tín về những sự kiện xảy ra ba thế kỉ sau
đó. Miền Bắc và miền Nam bị chia cắt thành hai chính thể tách biệt
“Đàng Ngoài” và “Đàng Trong”. Các chúa Trịnh thống trị miền Bắc, các
chúa Nguyễn, miền Nam. Năm 1802 các chúa Nguyễn miền Nam cuối cùng đã
thắng các kẻ thù họ Trịnh ở miền Bắc, thống nhất đất nước dưới
sự bảo trợ của miền Nam. Cái thời loạn đả ấy đến bây giờ vẫn còn
in hằn trong ngôn ngữ của chúng ta: người Việt vẫn nói đi “ra Hà Nội”
và “vào Sài Gòn.”
Cuộc nội chiến ở thế kỉ 20 giữa
miền Bắc và miền Nam là một sự lặp lại đảo chiều. Hiệp định Geneva
năm một lần nữa lại chia Việt Nam thành các đối thủ trực tiếp: một
miền Bắc cộng sản đấu với một miền Nam dân chủ – với những cuộc
tổng tuyển cử được sắp đặt để thống nhất đất nước trong thời gian
hai năm. Người ta đoán là Hồ Chí Minh sẽ thắng. Biết điều ấy, Ngô
Đình Diệm tuyên bố thành lập một nước cộng hoà miền Nam độc lập,
vì nó không trực tiếp kí Hiệp định Geneva nên không bị ràng buộc. Hoa
Kỳ ủng hộ chính phủ Nam Việt Nam không cộng sản, đổ viện trợ tài
chính vào cho nó. Thắng lợi của miền Bắc năm 1975 trong Chiến tranh
Việt Nam đã thống nhất đất nước một lần nữa, nhưng những quan điểm
khác nhau vẫn tồn tại. Tùy theo bạn nói với ai, ngày 30 tháng Tư năm
1975 – ngày quân đội Nhân dân Việt Nam và Việt Cộng chiếm Sài Gòn, sẽ
được gọi là giải phóng hay xâm lược.
Má tôi thường nhắc tôi rằng tôi là
người miền Nam. Khi lần đầu tiên tôi vào học các khóa tiếng Việt tại
trường đại học, và bắt đầu phát âm những “v” những “qu” và phụ âm
cuối “n” má tôi và dì lớn của tôi trêu tôi “đã trở thành Bắc kì”.
Trong lớp, tôi nhanh chóng biết rằng nhiều từ tiếng Việt tôi nói ở
nhà mang nặng dấu ấn của từ vựng sử dụng tại miền Nam trước -75.
Một số lượng lớn người Việt miền Nam di cư trong những năm 1970 và 80
đã tạo nên những cộng đồng về thực chất là những ‘kíp nổ sống’
(living time capsules).
Giọng miền Nam của tôi đến và đi tùy
thuộc vào lúc tôi say hay tỉnh, nhưng sự hãnh diện là chắc chắn.
Ngày đầu tiên tôi đến lớp tiếng Việt nâng cao, ở Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012, giáo sư hỏi tôi đến
từ đâu “Will là người gì?”.
Không cần nghĩ, tôi trả lời ngay “Will
là người Nam.”
Hơi ngỡ ngàng nhưng ngạc nhiên thích
thú, giáo sư nói trong hơn 30 năm giảng dạy bà chưa bao giờ nghe một
câu trả lời như thế từ một người “sinh ở nước ngoài” tôi nhanh chóng
chữa lại – “Will là người Mỹ gốc Việt” – nhưng sự mơ hồ về căn cước vẫn
còn đó.
Những cuộc chuyện trò
Việc nghiên cứu của tôi về lịch sử
giữa miền Bắc và miền Nam thường dẫn tới sự kích động những người
bạn miền Nam bằng những đề tài nhạy cảm. Một lần, tôi hỏi giáo sư
người Việt của tôi ở trường Đại học Hoa Kì về một trong những cái
tên khác của chiến tranh Việt Nam, “Chiến tranh chống Mỹ cứu nước” nó ám
chỉ nặng nề rằng những người Nam chúng ta là những người cộng tác
với đế quốc. (Về phương diện này, Ngô Đình Diệm, tổng thống đầu tiên
của Nam Việt nam, và em trai của ông là Ngô Đình Nhu, cả hai đã bị ám
sát với sự ủng hộ ngầm của Mỹ vì họ đã không đủ phục tùng.) Lần
đầu thấy những dòng chữ ấy trên các áp-phích tuyên truyền trên các
đường phố Sài Gòn, với tôi, là một trải nghiệm choáng váng.
Tất nhiên tôi cũng đã nghiên cứu kĩ
mặt kia, tôi đọc nhiều sách và xem vô số những cuộc phỏng vấn từ
các cá nhân phía cộng sản, cả những người ở Hà Nội lẫn những
người ẩn náu trong những khu rừng miền Nam.
Trong chuyến đi đầu tiên của tôi về
Việt Nam vào mùa hè năm 2007, trong dự án nghiên cứu của tôi về văn
hóa gay ở Sài Gòn, tôi tự mình đi hỏi những người địa phương
tôi gặp ngẫu nhiên rằng họ nghĩ gì về cuộc chiến, về đời sống sau
1975, về chính phủ hiện nay của họ.
Một áp-phích tuyên truyền trưng ở Đà
Nẵng. Những áp-phích tương tự có thể thấy ở và những thành phố
khác của Việt Nam.
“Những biển quảng cáo lòe loẹt này,
ở khắp mọi ngõ ngách… Trông quái lạ nhỉ?” Tôi mở đầu đề tài với
những người chạy xe máy như thế. Tình cờ, bất chợt. Kết thúc lửng
lơ. Những tấm biển tuyên truyền, với những hình tượng màu sắc liền
mảng thô kệch theo kiểu Xô viết của chúng, thật sự khiến tôi tò mò.
Đó là những tấm biển tuyên truyền chính trị công khai, được nhà nước
phê duyệt, ca ngợi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trong lịch sử,
trong công cuộc “giải phóng” miền Nam, trong một nước Việt Nam “hiện
đại”, văn minh. Và quả thật chúng có mặt khắp nơi. Khi chúng tôi chạy
xe qua vô số những tấm biển như thế, rải rác khắp thành phố, tôi lợi
dụng cơ hội này để hỏi những người chạy xe máy ý kiến của họ về
hiện tình chính trị.
“Họ là một bọn dối trá.”
“Họ không thật sự quan tâm đến nhân
dân.”
Khi một người chạy xe ôm phóng vọt qua
trước một tòa nhà cực lớn, anh bảo tôi rằng đó là tòa nhà cúa một
đảng viên cộng sản nổi tiếng. Có một ý nghĩa cay độc nhất quán
trong những con người của giai cấp công nhân này.
Câu chuyện của một phụ nữ miền Nam
luống tuổi đặc biệt thú vị, vì bà đủ già để có trải nghiệm về
“giải phóng” và những năm sau đó. Tôi gặp bà qua một người bạn của
má tôi, (má tôi hết sức lo sợ cho an toàn của tôi; tôi là thành viên
đầu tiên của gia đình trở lại Việt Nam kể từ khi họ di tản, và tôi
đi hoàn toàn một mình như đứa con của một gia đình “cộng tác.”)
Đến nhà, tôi hết sức ấn tượng với
sự cao rộng và vẻ hiện đại của nó. Nó có quầy bếp bọc đá granite,
sàn bằng gỗ cứng, và đồ đạc trong nhà cổ kính, uy nghi, bằng gỗ
màu anh đào gây ấn tượng mạnh mẽ. Nhà này xa hoa theo tiêu chuẩn Việt
Nam, trong sân để được ít nhất bốn chiếc xe máy, rõ ràng gia đình
này tương đối khá giả.
Bà dì ngồi với tôi trong phòng khách,
chuyện gẫu lan man về gia đình của chúng tôi, rồi câu chuyện quay sang
đời sống những ngày liền sau 30 tháng Tư năm 1975.
Vào thời điểm đó, bà dậy đóng tất
cả các cửa lớn cửa sổ, kéo rèm che. Phần sau cuộc nói chuyện bà
nói thầm thì. Gia đình bà là doanh nhân thời chế độ cộng hoà, tích
lũy được nhiều của cải. Sau khi cộng sản vào thành phố, các đảng
viên địa phương, biết rõ gia đình này giàu có, kiếm cớ để tịch thu
ngôi nhà. Không thể chống lại vụ này, nên gia đình đã quyết định làm
việc trong chế độ mới, thiết lập đủ các mối quan hệ chính trị để
cuối cùng đòi lại được ngôi nhà trong khoảng một thập niên. Trong câu
chuyện của bà có một liều lượng mạnh sự khinh bỉ đối với những ông
to bà lớn có quyền, nhưng chính sự dẻo dai, ngoan cường và tài xoay
sở của gia đình bà che mờ tất cả những cái khác trong mắt tôi. Đó
là một sự bất công được sửa chữa thông qua thủ đoạn gian xảo của
một hệ thống chính trị xa lạ. Đến nỗi 20 năm sau bà vẫn còn bị
hoang tưởng về bị nghe trộm khi nói về nhà nước theo dõi đàn áp
tràn lan mà người việt Nam phải sống dưới nó.
Một cách nhìn khác đến dưới hình
thức một chủ hiệu người Bắc tại một cửa hàng bán apphích tuyên
truyền. Bà ấy nhận thấy tôi đến cửa hiệu nhiều lần, và hình dung
tôi là một “Việt Kiều” bà chủ động bắt chuyện với tôi về lịch sử
và chính trị.
Tôi hơi sửng sốt nhưng hào hứng với
sự thân thiện của bà và sự hăng hái muốn tôi hiểu về Việt Nam. Bà
ấy bảo tôi muốn hỏi gì cứ hỏi. Biết tôi ở trong một gia đình miền
Nam đã vượt biên sau chiến tranh, bà biết tôi đã có một liều lượng
nghi ngờ đủ mạnh về chủ nghĩa cộng sản và chế độ chính trị hiện
thời và cố sức biện hộ cho phía bên kia. Bà bảo bà chuyển vào
Thành phố Hồ Chí Minh sau khi nó được giải phóng.
Tôi đi thẳng vào những vấn đề gai
góc. Tại sao có nhiều người miền Nam vượt biên đến thế? Các trại
học tập cải tạo là thế nào? Sao những người trong chính quyền gọi
chế độ hiện tại là “dân chủ” trong khi chỉ có một đảng duy nhất cầm
quyền?
“Người ta vượt biên vì sợ bị trả
thù,” bà nói. “Khi anh chống lại những người chiến thắng, tất nhiên
anh phải hiểu khi nào họ đến.”
“Các trại cải tạo, bà tiếp tục,
không phải tất cả đều xấu thế: trại mà tôi đến thăm thậm chí còn
có cả những khu vườn đẹp, và những luống hoa. Và trong bất lì
trường hợp nào, anh phải hiểu tình hình mà chính phú mới phải đối
mặt. Anh có toàn bộ dân cư lớn lên dưới chế độ của kẻ thù. Khi anh
lên nắm quyền, anh phải dám chắc nhóm này hợp tác, anh phải bảo đảm
nhóm này được giáo dục theo cách của chế độ mới.”
Những câu trả lời của bà bắt đầu nao
núng, khi động đến chế độ “dân chủ” hiện nay. “Chúng tôi có những
cuộc bầu cử, chúng tôi có đi bầu. Chúng tôi có các đại biểu lập nên
một quốc hội,” bà nói.
“Vâng, nhưng tất cả những cái đó không
thật sự quan trọng khi bà chỉ có thể chọn những đại biểu từ một
đảng,” tôi cãi lại. “Nếu mọi người bị bắt buộc phải theo cùng một
ý thức hệ, cùng một tư tưởng, thì làm sao có lựa chọn. Một nền dân
chủ thực sự đòi hỏi phải có nhiều đảng.” Bà ấy không đồng ý, khăng
khăng nói rằng vì các cơ quan có tồn tại, nên nền dân chủ có tồn
tại ở Việt Nam.
Niềm tin và dân chủ
Thật ra, chân lí là một đề tài nhạy
cảm ở cả hai phía; tôi lớn lên được vây bọc trong phe chống cộng hơn
là phe chống tư bản. Nhiều ý đồ khắc phục tình hình này đã dẫn
đến một số thời khắc khá khó chịu. Tôi nhớ trong một cuộc nói
chuyện giữa má tôi và dì tôi, má tôi nói rằng bà phải tín nhiệm
chính phủ cộng sản vì đã thống nhất đất nước và phát triển kinh
tế với một tốc độ nhanh chóng, nhưng dì tôi vặn lại ngay rằng cậu
tôi – đã phục vụ trong quân đội miền Nam – chắc sẽ đánh má tôi thành
thương tật nếu ông nghe bà nói như thế.
Đến nay tôi vẫn tìm một cách nhìn
nhận ít cực đoan hơn, nhiều sắc thái hơn về cuộc chiến tranh và
những ý hệ tranh chấp của nó hơn là [cách nhìn] mà má tôi thích.
Trong một cuộc phỏng vấn của đài BBC, bà Nguyễn Thị Bình, một người
miền Nam, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam và một nhân vật cộng sản nổi tiếng tại
Hội nghị Hoà bình Paris, được hỏi bà nghĩ gì về những người bất
đồng chính kiến Việt Nam và mong muốn của họ về một đất nước tốt
đẹp hơn. Bà vặn lại: “Họ khác tôi ở chỗ nào?”
Sự lưỡng phân “thiện – ác” đã hằn sâu
vào những câu chuyện kể về miền Bắc và miền Nam đến nỗi trước khi
tôi nghe lời bình luận ấy [của bà Bình] tôi chưa bao giờ thật sự
nghĩ về nó theo cách ấy. Những con người ấy, những người Cộng sản,
đã ngã xuống cho những lí tưởng của họ, cho đất nước họ, và có lẽ
ý nghĩa nhất, cho đồng bào họ. Chúng ta có thể, hay có nên, tin
tưởng một cách cay độc rằng những người đã chiến đấu cho phe miền
Bắc đã hi sinh tuổi xuân của họ, và đôi khi cả cuộc đời họ, chỉ để
giành quyền lực mà những đồng bào Việt Nam của họ phải trả giá?
Mặt khác, miền Nam chiến đấu cho cái
gì? Lật qua những trang sách lịch sử Mỹ, người ta khó tìm ra một câu
trả lời nào chân thật vượt ra khỏi “thuyết domino”, một lí thuyết cho
rằng việc một nước rơi vào chủ nghĩa cộng sản sẽ dẫn đến hiệu ứng
domino trong các nước lân cận. Đọc những tài liệu như thế, khó mà
không chia sẽ ý tưởng (của Hà Nội) rằng Nam Việt Nam là do Mỹ dựng
lên và chống đỡ. Thật ra, tôi càng nghiên cứu sâu thì càng nhận ra
rằng chính cái cảm giác nửa thương nửa ghét sâu sắc trong cư dân miền
Nam đã dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng trong bối rối của Nam Việt Nam.
Khi được hỏi tại sao họ chiến đấu và
chiến đấu cho cái gì, binh lính miền Nam thường cho thấy hóa ra họ
không tin tưởng vững chắc vào sự nghiệp của chính họ. Những đôi giày
ủng, những bộ đồng phục bị những người lính trút bỏ tại chỗ vào
ngày 30 tháng Tư năm 1975 chứng minh điều đó.
Dân chúng miền Nam trong thời gian
chiến tranh có thể không có khả năng trả lời câu hỏi “chúng ta chiến
đấu cho cái gì?”, nhưng mấy thập kỉ sau đó với nền kinh tế quản li
tồi tệ và nền chính trị đàn áp sau thống nhất chắc đã cung cấp
một câu trả lời vang dội, đặc biệt cho những ai không có khả năng
thoát khỏi đất nước.
Vào đầu những năm 2010, sau gần một
thập niên nghiên cứu và đọc, quan điểm của tôi đã chín từ chỗ “thừa
nhận phía chúng ta có thể đã ‘sai’ và sau đó tìm ra điều gì đã xảy
ra cho cả hai phía” để không bao giờ để lạc khỏi tầm mắt sự kiện là
nền dân chủ mà miền Nam cố gắng gắn kết đã mở đường cho chủ nghĩa
cộng sản toàn trị do miền Bắc áp dụng. Cả hai đều là những hệ tư
tưởng ngoại lai, áp đặt, và sự kiện cái này thắng cái kia không mang
lại hiệu quả đích thực. Như một tác giả, một nhà bất đồng chính
kiến Việt Nam là Dương Thu Hương đã diễn tả một cách hùng hồn: “Cái
đẹp không phải bao giờ cũng chiến thắng.”
Mặc dù phim ảnh và truyền thông bị
người Bắc thống trị hoàn toàn, sự thách thức của miền Nam đang hiện
lên bề mặt. “Chỉ đến khi ta mất một điều gì đó, thì ta mới biết
trân trọng nó” đoạn quảng cáo phim Cô Ba Sài Gòn (Cô Thợ may)
năm 2017 mở đầu như thế. Giọng thuyết minh miền Nam ngay lập tức được
tiếp theo bằng cận cảnh tòa đô chánh Sài Gòn, ống kính máy quay
chĩa thắng vào cột cờ – nơi lá cờ Nam Việt Nam tung bay. Nền vàng, ba
gạch đỏ. Nó thật tinh vi, nhưng những ai đang mong chờ nó thì cảm nhận
được.
Từ từ lùi ống kính ra xa, tiếp theo
bằng những cảnh quay sự phồn vinh kinh tế và phô bày những áo dài
truyền thống lay động để nhấn mạnh sự nở hoa của nền văn hóa Việt
Nam dưới một chế độ “phát xít,” “bù nhìn.” Chính những cảnh này
được đưa lên màn ảnh lớn đã trực tiếp xói mòn luận điệu của cộng
sản rằng Sài Gòn cần được “giải phóng.” Một câu hỏi đặc biệt dễ
thấy được hỏi trong số những người bất đồng chính kiến, cả trong và
ngoài nước, là “ai giải phóng ai?” Có phải miền Bắc bần cùng đã
giải phóng miền Nam giàu có? Hay là ngược lại? Hơn nữa, chính xác
miền Nam cần được giải phóng khỏi cái gì? Khỏi một đời sống giàu
có, tiện nghi, thanh bình à?
Phim cổ võ cho việc gìn giữ áo dài –
trang phục truyền thống của Việt Nam – đối với thời trang phương Tây
những năm 1960 ở Sài Gòn, nhưng thông điệp ngầm của nó, trong vỏ bọc
của một phim vô hại về thời trang, là không thể lầm lẫn. Đốn với
miền Nam, mất mát là về chính trị nhiều hơn về văn hóa: các công dân
không còn có tự do, dân chủ, và một xã hội dân sự sống động nữa.
Cho dù mới chỉ được thực hành chưa hoàn hảo ở miền Nam, sự tự do
phát biểu lớn hơn đã mang lại phồn vinh và một xã hội có phẩm chất
tốt đẹp hơn cái mà Việt Nam đang có hôm nay. Nhiều người Việt Nam,
không thể biểu lộ sự bất mãn với hiện trạng bên thùng phiếu, đã
bầu bằng đôi chân của mình. Rời bỏ đất nước là giấc mơ cho những ai
có điều kiện làm điều đó, Hà Nội sẵn sàng thừa nhận rằng Việt Nam
đang chịu cảnh chảy máu chất xám.
Cho dù như vậy, cũng phải thừa nhận
rằng chiến tranh là sự biểu lộ cả Bắc và Nam đều muốn chọn điều
tốt nhất cho dân tộc mình trong khi quyết liệt chọn những con đường
khác nhau. Tin ngược lại điều ấy sẽ là sự yếm thế không thể tha
thứ, khi nhìn một trong hai chính phủ như những thực thể nguyên khối
không phải được làm bằng những cá nhân người Việt yêu đất nước mình.
Cội rễ của xung đột bắt nguồn từ chỗ cả hai tranh đua để là tốt duy
nhất. Cả Bắc và Nam đều có những sự nghiệp mà họ tin là chính
nghĩa – một sự thật mà người Việt cả trong và ngoài nước vẫn chưa
hoàn toàn chấp nhận.
Trên báo chí và trong giới ngoại giao,
chỉ có một Việt Nam “thật.” Mặc dù Việt Nam Cộng hoà thôi tồn tại
từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, nó vẫn sống trong trái tim và trí
óc của hàng triệu người Việt ghê tởm chế độ toàn trị cộng sản. Nó
sống trong việc bị ép buộc phải vắng mặt trong diễn ngôn dân tộc của
Việt Nam. Sự cấm đoán mặc nhiên, thầm lặng lá cờ vàng ba gạch đỏ,
cấm bất kì sự nhắc nhở tích cực nào về Việt Nam Cộng hoà, về bất
cứ cái gì dính dáng đến nhà nước đã từng tồn tại ấy, theo cách
nào đó, đang làm cho Nam Việt Nam tồn tại mãi. Và nếu lịch sử có
chỉ báo điều gì đó, Miền Nam sẽ nhớ.
Will Nguyen, 30 tháng Tư, 2018,
Hiếu Tân dịch
Về
tác giả:
304Đen – llttm - VV
No comments:
Post a Comment