Cuối cùng
thì Trư cuồng cũng được xuất
bản với cái tên mới nghe khá cải lương: Chuyện
ngõ nghèo sau 34 nằm nằm nằm bất động trong tủ sách nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh.
Nhân dịp
Văn Việt đăng toàn văn tác phẩm theo nguyên bản Trư cuồng, chúng tôi xin giới thiệu một bài viết giàu cảm xúc
của nhà thơ Hoàng Hưng nhân dịp 30 năm Trư
cuồng vẫn chưa tìm được “đầu ra”…
Văn Việt
Trư cuồng,
lời cảnh báo 30 năm
30 năm, đọc lại Trư cuồng, cảm xúc vẫn
như lần đầu. Lần đầu, chuyến đi Hà Nội mùa thu 1982 đầy sự cố, trong căn nhà
nhỏ bên dòng Kim Ngưu đen và thối anh trao cho tôi tập bản thảo viết tay mới
chỉ lưu truyền trong một nhúm bạn chí cốt. Cuốn truyện đã làm tôi mất ngủ.
Chỉ riêng những trang tả thực cảnh sống thảm
thương của một gia đình nhà văn – nhà báo nháo nhác xoay quanh cái chuồng lợn,
khi sức khỏe và sự tăng trọng từng ngày của lợn là mục tiêu sống của cả nhà, lũ
lợn “nhai gau gáu” hết xương ông Tchekhov đến sọ ông Dos, “nỗi lợn” làm người
chồng thành bất lực trên giường… đã đủ sức đánh gục người đọc bởi sự chân thực
đầy cảm xúc những trải nghiệm sống của cây bút già dặn. Những trang sử – văn
một thời cười ra nước mắt khi cả Hà Nội lao vào nuôi lợn như con đường duy nhất
thoát đói nghèo (không chỉ Hà Nội, ở Sài Gòn lúc ấy nhiều hộ ở chung cư nuôi
lợn đến nỗi làm tắc hết đường thoát nước!). Xung quanh đó là những câu chuyện
bi thương của người lính “B quay” bị dồn đến bước đường cùng, là nỗi chua chát của những trí thức vỡ mộng
sau cả tuổi thanh xuân hy sinh cho một lý tưởng cao vời giờ mới thấy không phải
dành cho con người sống thực, là nỗi ám ảnh “hình ngục nan đào” với những thẩm
vấn, theo dõi, gài bẫy, phản bội… mà ngành an ninh dùng để khủng bố những người
viết có tư tưởng “chống đối”. (Tôi nhớ từ lâu mình đã đùa bảo các ông anh
Dương Tường, Xuân Khánh, Châu Diên… ở Hà Nội bị cái “flicisme” nó ám – thấy chỗ nào cũng “flic”, thấy ai cũng
“flic” (cớm chìm). Trong bài thơ Người đi tìm mặt năm 1973 của tôi
có hình ảnh “Mặt ga đêm/miệng mở ngủ/ Giật thức/ mắt kinh hoàng” chính là ám
ảnh “flic” ở mọi nơi. Đến khi bị bắt trong vụ Về Kinh Bắc, tôi mới biết các anh
không hề tưởng tượng).
Riêng sức mạnh tả thực xã hội ấy của Trư
cuồng đã vượt hẳn tầm “hiện thực phải đạo” chung của văn chương chính thống
mấy thập kỷ. Nhưng chưa đâu! Cái chưa từng thấy trong rừng văn làng nhàng kia,
chính là nỗi suy tư đau đáu về xã hội, về lý tưởng, về cuộc đời… Từ hiện thực
của “lợn và người”, anh Khánh suy tư, những suy tư không chút tư biện mặc dù nhiều
chỗ “nghĩ thành lời”, độc thoại, đối thoại (kể cả trong những cuộc thẩm vấn).
Ai cũng biết có một thuở suy nghĩ là việc nguy
hiểm ở nước ta. Suy tư, hay “phản tư” về lý tưởng chính trị có thể coi là hành
động dũng cảm nhất của mấy thế hệ trí thức dấn thân ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây
dùng từ “hành động” là theo nghĩa triết học, nhưng cũng theo nghĩa rất thật mà
an ninh dùng để buộc tội họ. Chỉ cần mấy kẻ gặp nhau, xới lên câu hỏi Que
faire? (theo tiêu đề cuốn sách của nhà Cách mạng Dân chủ Nga TK 19) đã là
“hành động”, thậm chí “hành động có tổ chức”, đủ để lĩnh một cái “án cao su” có
thể kéo dài hết đời người. (Chắc những blogger, những nhà bất đồng chính kiến
thời nay thấy từ thưở đó đến giờ câu chuyện có khác về mức độ nhưng vẫn y xì về
bản chất!).
Cũng vẫn chưa! Điều day dứt nhất của tác giả Trư
cuồng mà hiện thực “lợn” thúc ông đi đến tận cùng của suy tư: đó là “sự ô
nhiễm” của chuồng lợn vào xã hội người. Thực ra “tính lợn” đã tồn tại trong con
người qua hàng ngàn năm. Bản chất của nó là gì? Theo tác giả, “lợn sinh quan”
chính là:
“Hãy chỉ biết ăn – Ăn toàn bèo cũng được. Cứ ăn
cho đến lúc cái bụng ta to bằng cái thúng, và thế là cảm giác no nê, thỏa mãn,
hạnh phúc sẽ đến. Tuyệt đối chớ nên suy nghĩ, vì suy nghĩ là mầm tai ương”.
Chế độ
chính trị hiện đại đã tạo điều kiện cho “tính lợn” trở thành “bái trư giáo”,
khi những tên đồ tể lên ngôi với triết lý sống “cắt tiết cuộc đời” rùng mình
của chúng. Càng nguy hiểm khi bọn đồ tể, hoặc con cháu mang máu huyết của
chúng, hết cần mặc áo máu và cầm dao lá lúa mà vẫn “cắt tiết cuộc đời” một cách
êm ả trong bộ thời trang có khi “made in USA” hẳn hoi với những mối quan hệ
dằng dịt và đặc quyền hiến định.
Nguy hiểm cao độ khi chính những người trẻ tuổi
một thời tâm huyết, có ngày tặc lưỡi tự biện minh việc quẳng những Tchekhov,
Dos, Sartre… cho lợn ăn vì nhu cầu “cái bụng trước đã” (có khác gì những khẩu
hiệu “vivre d’abord” – sống cái đã – hay “kinh tế cái đã”, “ổn định cái đã”?),
để rồi trở thành “con rể” và học trò của bọn đồ tể lúc nào không biết!
Nguyễn Xuân Khánh dạo ấy thật sự bi quan. Ám ảnh
“Trư cuồng” (Porcinomanie – danh từ ông bịa ra, nghĩa đen là thói tật
sống kiểu lợn) không lối thoát đã đưa anh vào cơn ác mộng mang dáng dấp Trại
súc vật của Georges Orwell, một cõi “Cực-Thiên-Thai” mà những “đỉnh cao trí
tuệ” toan tính úp lên đầu nhân loại trong đó gã Công dân số 1 hiện nguyên hình
con lợn Bò. Rồi anh tỉnh dậy, chứng kiến đứa con trai mê triết của mình quyết
định bỏ sách cầm con dao lá lúa đồ tể để cứu cái bụng của cả nhà!
Anh chỉ còn biết hóa thân vào người cựu chiến
binh trèo lên ngọn cây kêu lên lời cảnh báo vô vọng “Pooc xi nô ma ni…” rồi ngã
xuống chết tốt giữa đám đông ngơ ngác!
Lời cảnh
báo 30 năm còn nguyên vẹn. Những dự báo của nhà văn đang thành sự thực nhãn
tiền trên đất nước này: “Bái trư giáo” đã biến thành quốc nạn tham nhũng và ăn
cướp, thành lối sống trơ trẽn vô sỉ, đẩy lùi văn hóa giáo dục về điểm báo động
đỏ. Trong khi lời cảnh báo thiết tha của tác giả vẫn bị nhốt trong ngục tù kiểm
duyệt! Đó là một tội ác!
Mãi đến
năm 2005, người đọc mới có được một bản Trư cuồng online do anh Châu
Diên giới thiệu cho tủ sách Talawas.
Ảnh: Hoàng
Hưng – Dương Tường – Xuân Khánh – Châu Diên, Hồ Gươm 2010
Để kết thúc, xin tiết lộ một chuyện lẽ ra đã
động trời từ 30 năm trước, liên quan đến Trư cuồng.
Tháng 8 năm 1982, trước khi tôi chia tay các ông
anh vào lại Sài Gòn, anh Khánh nói với tôi rất nghiêm chỉnh: “Cậu có cách nào
in cái Trư cuồng này ra, bất kể ở đâu, tớ sẵn sàng chịu mọi hậu quả!”.
Tôi nhận lời mà thực sự cũng chưa biết cách nào đáp ứng nguyện vọng của anh.
Hình thức “samizdat” (tự xuất bản ở Nga thời cuối Cộng) chưa có tiền lệ ở Việt
Nam, mà việc gửi ra nước ngoài thì quá nguy hiểm và tôi cũng chưa có đường.
Nhưng tôi cứ nhận. Phút chót, bỗng lo bản thảo bị tình cờ phát hiện trên đường
đi bởi việc lục soát hàng buôn Bắc – Nam, mà thưở ấy, chẳng thể trông cậy vào
đồng lương chết đói, tôi đang kiếm sống chủ yếu bằng những mặt hàng như thế
(máy ảnh từ Sài Gòn ra, Hà Nội vào thì phim giấy ảnh, thuốc lá sợi, giấy cuốn
thuốc lá, cả mỡ lợn nước…). Tôi bèn nhờ người bạn học “Đảng viên nhưng mà tốt”
là anh Lâm Vinh – anh trai Vụ trưởng Lâm Quang Thiệp – mang giùm bản thảo Trư
cuồng. Anh sẵn sàng. Hôm anh đến nhà tôi lấy thư giới thiệu với anh Xuân
Khánh thì biết tôi vừa bị bắt. Thật là “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Không bị bắt
vì Trư cuồng (nghe còn có lý vì nó “phản động” thật), lại bị bắt (một
cách hết sức vô duyên) vì Về Kinh Bắc!
Hôm cùng lên lĩnh giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội
năm 2006 (tôi: tập thơ Hành trình, anh Khánh: tiểu thuyết Mẫu thượng
ngàn), đứng bên nhau anh Khánh bật cười phụt ra nửa câu về câu chuyện 30
năm cũ, nhưng rồi nhịn lại.
Thì bây giờ tôi kể rõ, vì bây giờ tôi mới thực
hiện được cái việc anh gửi gắm 30 năm trước. Và đây, nó là cuốn thứ 4 trong tủ
sách HHEBOOKS của tôi. Đây là bản PDF tôi chuyển từ file của anh Châu Diên gửi,
chỉ sửa lỗi chính tả đôi chút, và nhờ làm bìa (sẵn sàng để in khi có cơ hội).
Tháng 8 năm 2012
H.H.
Hoàng Hưng
Thiên chi
đạo: tổn hữu dư bổ bất túc
(Đạo trời:
bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu)
Phản giả
Đạo chi động
(Quay trở
lại (cái Quân Bình), đó là cái
Động của Đạo)
Lão Tử
L’homme
n’est ni ange ni bête,
et le
malheur veut que qui veut faire l’ange fait la bête
(Con người
chẳng thiên thần cũng không thú vật,
song khốn
thay ai đó muốn làm thiên thần
thì thành
ra lại là thú vật)
Pascal
Phần 1
Nhật ký
lợn
Nhật ký này là của ông Nguyễn Hoàng; ông Nguyễn
Hoàng làm nghề viết báo, kiêm nghề nuôi lợn.
Có lẽ, khi làm nghề cầm bút, ông đã phạm một cái
“húy” gì đó nên bị thất sủng, phải về nghỉ hưu, tuy chưa đến tuổi. Ông là người
tỉ mỉ, lại vì mắc bệnh nghề nghiệp nên thích ghi chép. Ông đã ghi lại khá tường
tận, thú vị công việc chăn nuôi của mình.
Xét thấy nhật ký này có điều hay hay, nên cố sưu
góp lại để các bạn cùng đọc.
Ngày… Tháng…
Nhà tôi đã có ba chú lợn ỉn khoảng 10 cân mỗi
con rồi, hôm nay tôi lại mua thêm một chú lợn rất đặc biệt: Chú Lợn Bò.
Chú lợn này chỉ nhỉnh hơn cái phích lít rưỡi một
chút. Lông nó mầu hung vàng, có một chút óng ánh, giống như mầu cỏ tranh vàng
khô vào mùa lá rạc ở Tây Bắc. Mắt nó như thơ dại, ngơ ngác như mắt bò, đôi mắt
có vẻ đần đần, nhưng đẹp. Người chủ bán hàng giới thiệu với tôi một cách hoang
đường: Các nhà khoa học đã làm thí nghiệm thành công, họ đem tinh trùng của bò
thụ tinh cho lợn; kết quả thu được một con thú nửa bò nửa lợn.(1)
Nó biết ăn cả cỏ, ăn cả cám. Giống này được các
nhà chăn nuôi sành sỏi và tài ba rất mê, bởi vì nó tăng trọng rất nhanh, có thể
nói phi thường, và nó có thể đạt tới trọng lượng ba trăm ki lô gam, thậm chí
năm trăm… Nghe lời giới thiệu có vẻ siêu khuếch đại tôi liền vỗ tay đánh đốp
vào tay ông lái lợn và cười hơ hớ. Cả chủ hàng và khách hàng đều có chút khoái
nhau, cái tiếng cười hơ hớ ấy, và cái bắt tay ròn rã ấy, cái kiểu giới thiệu
hoang đường ấy cộng hợp với nhau làm cho cuộc mua bán trở nên dễ dàng thoải
mái. Tôi hí hửng suốt dọc đường từ chợ tỉnh Phúc Yên về Hà Nội; hí hửng vì vớ
được con lợn tốt bằng một giá rất hời.
Thậm chí tôi còn dám tự khen thưởng mình bằng
cách sà vào một quán nhậu ở bến đò Chèm để uống một chén rượu với dăm củ lạc.
Khi tôi định thả con Lợn Bò vào chuồng, vợ tôi
theo ra xem, cô ta nói rất mê tín:
- Ông không được thả. Người ông gày đét, ăn uống
cảnh giả, tay ông không mát. Để tôi thả cho, lợn mới hay ăn chóng lớn.
Tôi lắc đầu sốt ruột, đưa cho bà vợ lắm điều của
tôi chiếc bao tải dứa trong đó đựng con Lợn Bò quí giá. Khi chú lợn lông vàng
sợ hãi ngơ ngác từ cái bao chui ra, vợ tôi tròn mắt ngạc nhiên:
- Lợn gì mà kì quái! Lông đỏ như con sâu dóm!
Cơn hứng của tôi như bị dội một gáo nước lạnh;
tôi cáu kỉnh vặc lại:
- Lợn quí đấy! Bà biết gì chăn nuôi hiện đại mà
dẻo miệng chê bai.
- Hiện đại! – Vợ tôi bĩu môi, nhưng biết tính
tôi khi đã thích cái gì là lập tức lên cơn như mê như dại, nên cô ta chẳng dám
dây với tôi.
Còn tôi, thực sự lúc này tôi đang lên cơn mê
lợn. Đời tôi đã khối lúc lên cơn: cơn bộ đội, cơn viết báo, cơn gác đêm, cơn lý
tưởng, cơn mê gái, cơn thợ may, cơn đọc sách…
Vậy thì,
giờ đây tôi lên “cơn mê lợn” cũng chẳng có gì lạ. Mà chẳng cứ gì tôi, có thể
nói, hiện nay cả Hà Nội lên cơn mê lợn. Cao trào nuôi lợn đang dâng; giới nuôi
lợn dạo này rất vinh dự, bởi vì không những chỉ có người nghèo nuôi lợn, mà có
cả những vị quyền cao chức trọng nuôi lợn. Người ta kể ra: ông bí thư nhà máy
gạch N mới bán đôi lợn đại bạch trên hai tạ; ông thứ trưởng bộ X cũng nuôi bốn
con lợn F1, lai giống Landrat, to như bốn con bê; ông T thành ủy viên, cứ đi
làm về là vội thay ngay quần áo và cởi trần trùng trục, chỉ mặc độc chiếc quần
đùi và xông thẳng vào mê say cùng đàn lợn đẹp như tranh của mình; rồi cả ngài
chủ tịch K, hễ mỗi lần đánh xe con đi công vụ nông thôn là khi về thể nào trong
cốp xe cũng lỉnh kỉnh những bao ngô, bao gạo, bao thức ăn gia súc, và những rọ
lợn giống buộc đằng sau xe mốt cô vích thì tấu lên một khúc nhạc eng éc, rền
rĩ, rùng rợn, nhưng vui tai đối với người Hà Nội.
Ngày… tháng…
Con Lợn Bò đúng như một con sâu dóm so với đàn
lợn cũ của tôi. Nó đứng ở một xó chuồng, sợ sệt, lủi thủi, ngơ ngác, hèn mọn.
Trông mà thương! Lũ lợn ỉn, khi tôi đổ thức ăn vào máng, liền xông ra, tranh
nhau sốc lấy sốc để. Còn chú Lợn Bò thì đứng im đần độn bọt mép sùi ra thèm
thuồng. Khi quá thèm, nó cố vượt qua nỗi sợ, và mon men đến gần máng; lập tức
cả đàn ba con lợn ỉn ngừng ăn xông ngay lại, con cắn tai, con húc bụng, con đấm
mõm. Chú Lợn Bò run lập cập, vội vã rút lui trở về xó chuồng, cái xó tối tăm
nhất, bẩn thỉu nhất, nơi đọng phân rác, nơi hôi thối, một thứ chuồng xí của các
chú lợn ỉn; và cũng chỉ đến lúc ấy, lũ lợn ỉn mới buông tha Lợn Bò.
Tôi vốn là tay hiệp sĩ, thấy sự bất bằng chẳng
tha; tôi tức giận vì lũ lợn ỉn cậy mạnh hiếp yếu; sẵn cái chổi tre trong tay,
toi vụt cho mỗi chú ỉn mấy quất vào mông. Nhưng kết quả chẳng ăn thua gì; lần
thứ hai, chú Lợn Bò lại mon men đến gần máng, lần này ba chú lợn ỉn có lẽ vì
tức giận bị tôi trừng trị nên đã tấn công Lợn Bò dữ dội hơn. Rút kinh nghiệm
đợt trước, chú Bò vội vã rút ngay vào nơi hang ổ tối tăm của mình để thoát
hiểm. Hỡi ôi! Nơi tối tăm bao giờ cũng là nơi cư ngụ của những kẻ hèn mọn. Cái
qui luật người ấy cũng đúng cả với loài lợn.
Tôi ngẫm nghĩ, định trừng trị lũ lợn ỉn một lần
nữa, nhưng đầu óc tôi bỗng dưng lóe sáng: hãy cứ để mặc cho lũ lợn hục hặc với
nhau, cuối cùng thể nào đôi bên cũng thích ứng được với nhau. Ha ha! Tuyệt! Chí
phải! Hãy để cho triết học tâm lý học thấm nhuần đến tân chuồng lợn. Triết học
thích ứng, thực dụng nguồn gốc tận bên Mỹ; tâm lý học ứng xử của ông Watson
cũng mang nguồn gốc Mỹ, nay đang được chiêm nghiệm ở cái xó chuồng lợn của một
nhà báo thất thế đi vào nghề chăn nuôi ở một hẻm nghèo Hà Nội. Thú vị thật!
Nghĩ vậy, nên tôi buông chổi, quay vào bếp, tìm
một lỗ hổng kẽ vách, để quan sát đàn lợn.
Kìa! Lũ lợn ỉn đã no nê phè phỡn, con nào bụng
cũng căng tròn như trống. Chúng rời khỏi máng, ủn ỉn, đủng đỉnh đi về ổ, tức là
nơi cao ráo sạch sẽ nhất trong chuồng lợn, chỗ đó tôi đặt một chiếc tải và một
ôm rơm thơm tho ấm áp. Và chúng ngủ, mắt nửa hé nửa nhắm; chúng vừa ngủ vừa ì
ạch thở.
Chú Lợn Bò lấm lét nhìn bọn ỉn, rồi từ từ, ngập
ngừng tiến lại máng ăn. Con ỉn lang chợt ho, chú Bò lùi phắt lại, nhưng sau đó,
thấy im ắng, lại tiếp tục mon men đến máng, chú khẽ khàng liếm láp chỗ cám
thừa, vừa ăn vừa liếc nhìn lấm lét.
Vẫn im lặng! Tốt quá! Chú vội tranh thủ sốc lấy
sốc để. Tộp! Tộp! Tộp! Con ỉn lang choàng mở mắt khi nghe tiếng chú Bò gia tốc
ăn hối hả. Nó định đứng dậy, nhưng có lẽ no quá hóa lười, nên nó lại thả người
nhắm mắt. Tộp! Tộp! Tộp! Chú Lợn Bò lúc này chẳng cần giữ ý tứ nữa, nó ăn xả
láng, nó “vét đĩa” xả láng, nó háu ăn đến mức một cọng rau trong máng cũng
chẳng còn. tôi nghĩ: có lẽ nên đặt cho con lợn mới cái tên “Bò – Vét – Đĩa”.
Ngày… tháng…
Tôi ra thư viện đọc sách về lợn. tôi đi sưu tầm,
mua, mượn hàng chồng sách về nhà để đọc. Có thể kể tên các cuốn sách: Giải
quyết thức ăn cho lợn; Đạm và sự tăng trưởng của lợn; Những biện pháp trong
chăn nuôi gia súc; Hỏi và đáp về nuôi lợn lai kinh tế; Những nguyên tố vi lượng
trong chăn nuôi; Chuyên đề lợn ỉ; Chuyên đề lợn Móng Cái v.v …
Có thể nói không gian, thời gian của tôi đang
bão hòa chất lợn. Tôi sai con đi mua nứa về làm chuồng bèo; tôi phá hoang mấy
đám đất đầu trâu mõm bò ở tận cuối hẻm để gơ dây khoai lang; tôi đi xin cô em
tận nhà máy gỗ cầu Đuống một số tấm gỗ bìa bắp, và hai cha con tôi vất vả hì
hục thồ cả ngày mới đem được hết gỗ bìa về nhà, để chuẩn bị làm một cái chuồng
lợn thật đúng qui cách. Tôi phân công cả nhà vào chiến dịch nuôi lợn của tôi.
tôi đảm nhiệm việc chăm sóc, cho lợn ăn, quét dọn chuồng lợn hàng ngày. Thằng
con lớn là sinh viên đại học, thi thoảng phụ giúp tôi. Thằng con thứ hai đảm
nhiệm bèo bã rau xanh. Thằng con thứ ba hàng ngày đi nhặt nước gạo. Thằng con
thứ tư và bà mẹ hàng ngày thái bèo. Còn vợ tôi, đi làm suốt ngày nên được miễn
việc sưu dịch cho lợn. Tôi nói đùa với cả nhà:
- Chúng ta là những anh hùng nuôi lợn.
Nghe oai chưa!
Ngày… tháng…
Giá cả hàng hóa của Hà Nội leo thang vùn vụt.
Tôi ghi chép lại đây những con số đày ý nghĩa với cuộc sống gia đình tôi:
Su hào, một đồng một củ – Khoai lang, 22 đồng
một yến – Mỳ 85 đồng một yến – Rau muống lợn 1 đồng 5 hào một mớ – Bèo Nhật bản
4 hào một mớ – Bèo tấm 5 hào 5 nắm tay – Cá giếc 12 đồng một cân – Bơm xe 2 hào
một bánh – Trà chén 2 hào một chén…
Ôi chao! Toàn tiền là tiền. Tiền tiêu như rác.
Một nắm bèo cũng có giá. Trong khi đó, lương tôi được hơn 60 đồng, lương vợ tôi
70 đồng. tôi mê sảng đi vì lo tiền. Trong nửa năm, hai vợ chồng tôi đã bán dần
bán mòn các vật dụng: cái quạt máy, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, cái quần lụa,
hai mét si mi li, cái phiếu vải của con, ba chục trứng gà…
Chỉ những con số ấy cũng đủ biện hộ cho công
việc nuôi lợn, mê say lợn của tôi. Có thể nói “cơn lợn” của tôi là tất yếu, nó
là con đường cứu sống gia đình tôi.
Ngày… tháng…
Tôi còn có thể nói: lợn đã mở rộng thêm quan hệ
con người. Nhờ nuôi lợn, đời tôi đã thêm những người bạn mới.
Hôm nay, buổi sáng, khi cho lợn ăn xong, tôi
thay quần áo, đủng đỉnh sang nhà Lân uống nước.
Nhà Lân là một túp lều, một thứ nhà ổ chuột bên
dòng cống đen sì của Hà Nội, mà người ta đã đặt cho một cái tên mĩ miều: sông
Kim Ngưu (Trâu vàng), còn tôi, tôi gọi nó là dòng suối đen. Lân là một thương
binh, anh sinh viên trường đại học tổng hợp đó đã xung phong vào bộ đội vào
những năm đầu của thập kỷ 60. Lân đã nằm trong chiến trường miền Nam suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ, năm 1975 anh mới chuyển ngành về một cơ quan. Cuộc sống cơ quan quá bon chen, bê bối làm
anh chán ngán, xin về nghỉ ở nhà nuôi lợn. Có lúc, anh đã chua chát nói:
- Sống với
lũ lợn còn thấy vui hơn.
Những ngày gian khổ còn lưu lại cho anh một kỉ
niệm quá ư vật chất, một cơ thể ốm yếu gày gò, và một bộ óc lúc nào cũng như
lửa đốt. Con người anh, lúc cởi trần, giống như một bộ xương được bọc một lần
da mỏng, bộ xương quá mảnh dẻ để chống đỡ một cái đầu to quá kích cỡ, ở đó ta
bị hút ngay vào một đôi mắt rất sinh động. Đôi mắt hơi to, hơi sếch; có lúc cảm
giác như thứ mắt bị ma ám. Khi anh cất giọng nói một điều gì sôi nổi, lúc ấy
đôi mắt như mở rộng thêm và bị nhiễm điện, một dòng điện nhấp nháy khi tăng khi
giảm làm cho ánh mắt lúc rực rỡ lúc dịu dàng; thứ mắt mang nhiều sắc độ ấy là
thứ mắt không dấu diếm, thứ mắt trực cảm của những con người đã quá ê hề cuộc
sống, thấy không cần phải mặc một chiếc áo khoác ngụy trang nào dù sặc sỡ, dù
nhiệm mâu đến đâu …
Căn lều của anh sặc sụa mùi lợn, mùi lợn toát ra
từ một đàn lợn cả to cả nhỏ gần chục con; mùi lợn còn toát ra từ những bộ lòng
lợn mà sáng nào, chiều nào anh cũng kiên nhẫn vớt từ dòng cống đen sì lên. Anh
nói:
- Cái dân Việt Nam mình thật kì dị. Nghèo khổ
nhất mà cũng lãng phí nhất. Từ Lò Lợn, mỗi ngày người ta đổ xuống cống hàng tạ
lòng lợn. Lòng lợn nối đuôi nhau lều bều diễu hành bơi trên dòng nước đen sì
trông vừa thảm thương vừa man rợ …
Một người đàn bà nghèo khổ ở cuối hẻm đã lén lút
vớt những cỗ lòng về, rửa sạch đi bằng xà phòng, rồi đem luộc lên, mang ra quán
bia bán cho những con ma men cùng với những bát mắm tôm tím biếc, những quả ớt
đỏ chót và những cọng húng nhổi thơm lừng…
Lân đã thở dài khi kể với tôi chuyện đó với một
ánh mắt run run hấp hối. Và từ phát hiện ấy, anh đã nghĩ ra một cách nuôi lợn
độc đáo: nuôi lợn bằng những cỗ lòng phế thải lều bều trên sông. Từ hôm ấy, Lân
dựng thêm một túp lều nhỏ sát ngay dòng cống; đó là nơi sản xuất thức ăn gia
súc của anh; ta bắt gặp ở đây một bếp lò than và những thùng phuy, những vại,
những hố đào xuống lòng đất và lát bằng những mảnh nilông rách.
Qua Lân, tôi mới hiểu dòng cống cũng có qui luật
nước chảy của nó, nước cống cũng dâng lên hạ xuống theo giờ trong ngày, cũng
như nước thủy triều dâng lên hạ xuống theo qui luật sức hút. Hàng ngày, nước
cống cao nhất vào lúc 10 giờ sáng và 4 gìơ chiều, đó là giờ các bà nội trợ rửa
rau vo gạo, và người Hà Nội giặt giũ làm vệ sinh thân thể; cũng vào giờ đó
những cỗ lòng từ Lò Lợn ra bị mắc kẹt vì nước cạn nay được giải phóng; những cỗ
lòng phả phê nước tung tăng bơi lội như những con rắn trắng lặn ngụp, ve vẩy
trong dòng nước đen sì. Đúng vào giờ ấy, Lân hăm hở như một chiến sĩ phục kích
chờ giặc, anh cởi trần, mặc quần đùi, lội đứng ở chỗ nông gần bờ, tay cầm một
chiếc vợt đan bằng dây sắt, cán bằng cây nứa dài, và anh cắm cúi kiên nhẫn vớt…
Công việc vớt lòng của anh vất vả nhất vào dịp
những ngày lễ lớn, hội lớn như mồng một tháng năm, mồng hai tháng chín và tết
nguyên đán; vào những ngày ấy người Hà Nội ăn thịt nhiều và Lò Lợn cũng lãng
phí nhiều. Những ngày nhiều phế thải ấy, Lân hậm hụi làm việc như một người tù
khổ sai bẩn thỉu, hôi thối, quần quật từ sáng cho đến tận đêm. Đầu tiên, anh
tháo phân, rửa sạch lòng ngay trong dòng nước đen, sau đó để vào những rổ sồng
cho dóc nước. Những thứ dễ hủy như gan, phổi anh đưa lên bếp đun ngay, còn
những thứ lâu bị hủy như lòng già lòng non anh đem muối, muối nghĩa là đem trộn
nó với bã rượu rồi đem đổ đầy những thùng phuy, những vại, những hố có lót ni
lông. Khi một ngọn khói đen bốc lên từ túp lều, tức là xong việc. Lân xin những
chiếc lốp xe đạp hỏng về đun; cái thứ cao su hỏng ấy khi cháy tạo ra một ngọn
khói đen nhánh, đặc quánh, chỉ cần một thoảng gió khẽ tạt làm nghiêng ngọn lửa
là một con rắn khói đen đã quấn ngay vào mặt vào ngực tạo nên những vết đen khó
kỳ cọ trên da. Những lúc chui ở bếp chế biến ra, Lân trông thật thảm hại anh
như một con quỉ bẩn thỉu, với làn da đen xỉn nhễ nhại mồ hôi; nhưng trái lại,
sao lúc ấy đôi mắt anh người đến thế nồng ấm đến thế, đôi con mắt với tia nhìn
long lanh, đôi con mắt thỏa mãn, sung sướng. Những khi ấy, nếu tôi sang, anh
vội vàng cầm búi giẻ rách khéo léo lau mặt, lau tay, lau ngực và anh rủ tôi ra
chuồng lợn, ngắm lũ ỉn; những lúc ấy, chúng tôi thường im lặng, đốt thuốc lên
hút; và khi những điếu thuốc phì phèo trên môi đã cháy quá nửa, anh mới ngẩng
đầu lên nhìn tôi rồi cười.Trên khuôn mặt vàng sạm của anh, một nụ cười hiếm hoi
phô bầy hai hàm răng trắng đều và đẹp. Nụ cười khắc kỉ ấy nhìeu khi làm tôi bối
rối.
Lân suốt ngày ở trong lò chế biến thức ăn, hoặc
ở bên chuồng lợn, ít khi thấy anh ló mặt ra đường, đến nỗi có lúc tôi phải bỡn:
- Anh say mê lợn quá. Phải tặng cho anh danh
hiệu “Nghệ sĩ lợn” mới đúng.
Lân hóm hỉnh:
- Có lúc vợ tôi phát ghen lên đấy. Một đêm, bà
ấy bảo: “Ông nên kê giường ra ngủ với lợn có lẽ hơn”. Thật oan cho tôi. Bởi vì
tôi mê bà ấy quá nhiều nên mới phải lăn lưng ra nuôi lợn chứ. Từ khi tôi ở
chiến trường về, năm năm ở với bà ấy thì đẻ luôn một mạch năm cô con gái…
Hôm nay, trông thấy tôi, Lân đã reo to mừng rỡ:
- Cứ mong mãi. Có trà ngon đãi ông đấy. Trà
Thái, loại cực kỳ.
Lân nhóm bếp dầu đun nước, anh hâm ấm chén cho
nóng khi chờ nước sôi. Anh xoa tay, vui thú:
- Tôi đã bán được con lợn “Tên lửa” rồi. Con này
tăng trọng vượt mức. Mỗi tháng tăng 25 cân.
Tôi mỉm cười. Mỗi con lợn của Lân đều mang một
cái tên rất chiến tranh: con “Tên lửa” là con tăng trọng nhanh, con “Lính thủy
đánh bộ” là con ưa ăn loãng, con “Thần sấm” là con rú gào suốt ngày đòi ăn, con
“Xung kích” là con phàm ăn … tôi trìu mến nhìn người bạn hiền lành cả đời làm
lính ấy. Ngoài một mảnh đạn còn nằm trong phổi làm anh hay ho túc tắc, cuộc đời
chiến trận còn theo anh kéo dài dấu vết vào đàn lợn. tôi vẫn nói đùa Lân:
- Đàn lợn của cậu sặc mùi thuốc súng.
Hôm Lân sang xem tướng cho con lợn Bò, con lợn
sâu dóm của tôi, anh bảo:
- Con lợn này rồi sẽ có một tương lai rất huy
hoàng. Sau vài tháng nữa, anh thử chiêm nghiệm lời nói của tôi xem sao. Bây giờ
nó còn nhỏ bé, nhưng nó sẽ có một tiền đồ rất vẻ vang – Lân cười – Đáng lẽ ra,
anh phải đặt tên cho nó là “Xe tăng cọp” mới đúng. Cái tên “Bò vét đĩa” của anh
nghe sặc mùi dân sự …
Lân chế nước sôi vào ấm trà. Anh rót thứ nước
thơm phức, vàng quánh ấy vào chén cho tôi, rồi mời mọc ân cần:
- Uống đi. Uống mừng thắng lợi của tôi. Con “Tên
lửa” chỉ trong ba tháng đã tăng từ 25 đến 100 cân. Chưa lứa nào tôi nuôi được
con lợn tăng trọng nhanh như thế. Tính ra sau ba tháng, trừ chi phí còn lãi hơn
hai nghìn bạc. Có khoái không anh? tôi đã sắm cho các cháu mỗi đứa một bộ quần
áo.
Lợn còn dẫn tôi đén với người bạn thứ hai độc
đáo không kém gì Lân. Đó là Tám Bách Khoa. Tám là một giáo viên cấp ba, dạy
sinh vật. Anh này nuôi lợn ít thôi, nhưng lại say mê nghiên cứu về lợn. Tám nói
với tôi:
- Ở nước
ta, hiện nay, ai nuôi lợn là người đáng quí trọng, bởi vì nuôi lợn là một công
việc kiếm sống lương thiện nhất. (Ngay cả những ông lớn, dù lợi dụng đặc quyền
mua rẻ con giống và thức ăn, thì việc nuôi lợn của họ cũng đáng khuyến khích hơn
chuyện ăn cắp trắng trợn hoặc tham nhũng). Anh biết không, ngày xưa, nghề
dạy học của tôi vẫn được suy tôn là nghề cao quí nhất, lương thiện nhất, nhưng
thực ra ngày nay những điều đó thay đổi rồi. Có lẽ ta phải cần rộng lượng, bởi vì quan niệm của con người về nghề
dạy học đã bị thực tế làm biến đổi, bởi vì tri thức đang dần dần biến thành
hàng hóa. Người có tri thức cũng giống bà bán thịt, cô bán gạo, chị bán bách
hóa. Một bài toán, một ý tưởng cũng giống như một miếng thịt bò, một cân gạo,
một chiếc áo. Thịt tăng giá ư? Gạo tăng giá ư? Vải tăng giá ư? Vậy thì một bài
toán đại số của tôi, một bài văn làm mẫu của tôi, một đề luyện thi tủ của tôi
cũng phải tăng giá, nếu không, các thầy cô sống bằng gì? Đấy bây giờ người
ta lập luận về nghề thầy giáo như vậy đó.
Tôi thầm nghĩ về Tám: “Anh chàng này hơi gàn,
nhưng đáng yêu”. Lân bảo, hồi còn là học sinh Tám rất ít nói, và vẫn bị anh em
cho là gàn. Hồi ở chiến trường B, Tám đã bị bom B52 của Mỹ chôn sống, lúc được
anh em moi lên, Tám chết luôn cho một ngày một đêm. Vì bận đánh giặc, người ta
chưa kịp chôn anh, khi Tám sống lại bò ra giao thông hào tiếp đạn, anh em sợ
hãi hét lên tưởng Tám là quỉ nhập tràng. Từ đó Tám ít nói hơn trước, và nhiều
khi kì dị hơn trước. Có người bảo Tám tâm thần, song những hành vi của Tám
trong những phút gay cấn nhất ngoài chiến trận lại tỏ ra vô cùng sáng suốt. Và
một điều kì lạ nữa đã xảy ra khi Tám từ chiến trường trở về trường đại học,
luận án “Những cây cỏ có tính kháng sinh ở vùng Trường Sơn” của anh đã được
công nhận loại ưu. Và hiện nay, đề tài nghiên cứu khoa học của Tám là cuốn
“Bách Khoa Toàn Thư về Lợn”. Lân nói với tôi rằng Tám đang định dùng một cách
tiếp cận rất mới mẻ đối với đề tài lợn, đó là một cách tiếp cận vừa khoa học
vừa văn học. Nói theo ngôn ngữ của Tám thì đó là cách tiếp cận nằm trên giao
tuyến của hai phương pháp khoa học và văn học. Có ý kiến cho rằng ý nghĩ của
Tám là độc đáo, tài năng; nhưng cũng có ý kiến cho rằng Tám là một thằng điên.
Ngày… tháng…
Tôi hỏi Tám:
- Tại sao anh lại dùng cách tiếp cận Khoa học –
Văn học?
- Tôi thích những đường nét rõ ràng rứt khoát,
nhưng tôi hiểu trong tôi còn có những vết nhòe mờ. Tôi thích một giai điệu đẹp,
uyển chuyển, rực rỡ như một vườn hoa mùa xuân, nhưng thú thật có lúc nghe một
tiếng u ơ trẻ nhỏ lòng tôi chợt run rẩy sung sướng. Một âm thanh chưa thành âm
thanh ấy có khi còn đẹp hơn cả một giai điệu đẹp.
- Tôi chưa hiểu …
- Cần dè dặt với cái kì bí – Tôi biết mãi mãi
trong óc tôi vẫn có những miền bóng mờ và cả một vương quốc tối lòa mà tôi như
người mù bước đi dò dẫm.
- Sao ý anh bồng bềnh khó nắm? Cách tiếp cận
mới… Định nghĩa của nó…
- Đó là bước đi dè dặt, bước đi của người.
- Có lẽ tôi đã loé hiểu một chút gì.
- Những con số, đó là ân nhân của chúng ta hôm
nay; nhưng còn ngày mai? Có khi nào một ân nhân lại biến thành kẻ chôn vùi
chúng ta không? Có khi nào miếng cơm ta ăn lại trở thành thuốc độc tàn hại đời
ta? Có khi nào người yêu ta mê đắm lại trở thành kẻ thù và đôi tay ngọc ngà lại
như chiếc thòng lọng siết quoanh cổ ta mỗi ngày một chặt? Có khi nào nọc độc
rắn lại trở thành tiên dược?
Ôi! Định nghĩa! Một định nghĩa làm đầu óc tôi
phải sưng tấy lên để tìm ra những đường nét lẩn trốn của nó. Phải chăng cách
định nghĩa của người điên?
(Còn tiếp)
N.X.K.
304Đen – Llttm – VV
*Ghi Chú: Bài
này được viết bởi một nhà văn lớn của miền Bắc thời trước, nhận thấy nội dung
khá đặc biệt và cũng đáng xem qua, 304Đen lượm lặt đăng lại, kính quý anh chị đọc
thử.
No comments:
Post a Comment