BỤI ÐẤT VÀ HƯ-VÔ
Trưa ngày 25 tháng 12 năm 1974, tôi đang cùng với bạn-bè
dự một bữa ăn nhân dịp Nô-Entại nhà của
một thuộc-viên thì được Sĩ-Quan Trực từ Phòng Tình-Hình gọi máy đến
báo-cáo một tin-tức khác thường.
Vào khoảng 11g30 vừa rồi, có một chiếc trực-thăng
đáp xuống cạnh Trường
Tiểu-Học XãLộc-Mỹ, thuộc Quận Ðại-Lộc,
Tỉnh Quảng-Nam. Từ trên phi-cơ bước xuống một thiếu-tướng và
một trung-tá Việt-Nam Cộng-Hòa, cùng với một người đàn-ông và một người
đàn-bà Hoa-Kỳ. Người đàn-ông có mang theo một cái hộp trên tay.
Viên trung-tá vào trường, dẫn bác Cai Trường ra,
giới-thiệu với mấy người kia; rồi bácCai Trường vào
trong mang ra một cái xẻng, theo sự chỉ-dẫn của hai người Mỹ, đào một
cái lỗ, ngay giữa hàng-rào phân chia khoảng sân bên hông trường ấy với con
đường hương-lộ bên ngoài, chôn xuống đó cái hộp từ tay của người
đàn-ông Hoa-Kỳ, lấp đất lại, rồi xóa sạch dấu đất mới, để chỗ đó trông
giống bình-thường như không có việc gì xảy ra.
Xong, bốn người kia trở lên trực-thăng bay đi, và bác Cai Trường vào trường.
Mọi việc xảy ra mau lẹ như đã được sắp-đặt từ
trước rồi.
Lúc chôn cái hộp là vào khoảng 12 giờ trưa.
*
Tôi đoán là có cái gì bí-mật, mà nhà chức-trách
địa-phương giấu kín, hoặc không biết rõ nên Sở Ðặc-Cảnh
Tỉnh Quảng-Nam chỉ báo-cáo đơn-giản thế thôi. Cho nên, do
tò-mò nghề-nghiệp, tôi về nhà sớm và bắt tay vào việc ngay.
Sau khi gọi điện-thoại hỏi Trung-Tâm Hành-Quân thuộc
Sư-Ðoàn I Không-Quân và Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I, tôi tổ-chức một chuyến
đi vào Quảng-Nam quan-sát tại chỗ, đồng-thời tiếp-xúc với các
mật-viên quanh vùng, để biết thêm chi-tiết về vụ này…
*
Bác Nam thanh-minh:
– Tôi cứ
tưởng là chỉ cần báo-cáo những gì liên-can đến cộng-sản mà thôi, còn đây là
vấn-đề tình-cảm cá-nhân mà các người trong cuộc đã yêu-cầu tôi giữ kín giùm…
Thiếu-Tá Sơn đỡ lời tôi:
– Không
ai trách-móc bác đâu. Bác hãy kể chuyện về người Mỹ tên Sam đi.
Bác Nam kể:
– Ðầu
năm 1971, Toán Dân-Sự-Vụ của
Thủy-Quân Lục-Chiến Hoa-Kỳ hoạt-động tại QuậnÐại-Lộc thay đổi cấp
chỉ-huy.
“Người mới đến là Đại-Úy Sam, một
thanh-niên đẹp trai, hiền-lành, nhã-nhặn, bình-dân. Anh rất lanh-lợi và có
nhiều sáng-kiến hay.
“Công-tác nổi bật đầu tiên là anh thành-lập
một Hội Việt-Mỹ cho
Quận Ðại-Lộc. Anh chịu khó đi thuyết-phục để mời vào Hội không
những chỉ các viên-chức chính-quyền như Quận-Trưởng, Phó Quận-Trưởng,
Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực, Trưởng Chi Thông-Tin, Trưởng Phòng Văn-Hóa Giáo-Dục,
Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học, các sĩ-quan thuộc Chi-Khu, Xã-Trưởng, giáo-sư,
giáo-viên, phụ-huynh học-sinh, học-sinh tiểu+trung-học, v.v… như thường-lệ, mà
anh còn mời cả các thương-gia, nông-dân, tài-xa, tài-công, lâm-dân, ngư-dân,
v.v… cùng với một số tu-sĩ Phật-Giáo trong vùng.
“Với Hội Việt-Mỹ của Sam,
sinh-hoạt ở đây sinh-động hẳn lên. Hội-viên gồm mọi tầng-lớp
xã-hội. Sách+ báo từ phía Hoa-Kỳ phân-phát, phổ-cập hầu
như đến từng gia-đình. Hoạt-động không chỉ thu gọn trong các kỳ họp,
mà còn thể-hiện qua bất-cứ cơ-hội nào có người Mỹxuất-hiện trong làng
xóm Việt-Nam.
“Sam đề-nghị, và được
phía Việt-Nam đồng-ý, dùng phòng học của Lớp Năm trường
tiểu-học Lộc Mỹ này làm nơi trao-đổi văn-hóa, dạy
tiếng Anh vào buổi tối, vì nơi đây thuận-tiện cho sự đi lại của mọi
người.
“Phòng này nằm ở đầu dãy, bên hông có một cửa
sổ nhìn ra hàng-rào che khuất tầm mắt của người qua đường. Phía bên kia
đường, các ông thấy đấy, có một cây đa cành lá sum-suê, rễ ở gốc cây cao hơn
mặt đất, người nào vóc cao mà đứng lên trên đám rễ, tựa vào gốc cây nhìn vào
cửa-sổ thì trông thấy mặt cô giáo rõ-ràng.
“Giáo-viên Lớp Năm là cô Diệu-Hương,
hoa-khôi toàn Quận, năm ấy vào khoảng hai mươi, dịu-dàng, lễ-phép, đứng-đắn,
siêng-năng.
“Phòng học Lớp Năm trước kia là nơi cô đến
soạn bài, chấm bài cho học-sinh, và tự học thêm chương-trình đại-học vào các
ngày nghỉ và mỗi buổi tối, thì nay còn là nơi cô đến làm công-việc của Hội với
tư-cách thư-ký, học tiếng Anh, dạy tiếng Việt cho ngưới Mỹ,
giúp chiếu phim, điều-khiển máy ghi-âm, v.v…
“Cha mẹ cô thuộc giới trung-nông,
sùng Ðạo Phật và chịu ảnh-hưởng Ðạo Nho.
“Sự giao-tiếp giữa cô với Sam, trong
khung-cảnh chung của sự tiếp-xúc giữa hai bên Việt-Mỹ, có bắt tay, có vỗ
vai, nhất là giữa đàn-bà con-gái Việt Nam với đàn-ông Hoa-Kỳ, bề
ngoài là chuyện tự-nhiên, nhưng cha+mẹ cô rất lo, nên đã nhờ tôi theo dõi, ngăn
ngừa giùm, sợ đi quá xa.
“Tôi là Cai Trường, làm liên-lạc-viên của Hội, vừa sắp dọn rồi
cất dẹp mọi thứ trước và sau mỗi buổi, vừa tham-dự học tiếng Anh và
dạy tiếng Việt, nên tôi có mặt hầu hết mọi
lần Samvà Diệu-Hương gặp nhau. Và tôi đã thấy ngay
một mối tình trai+gái chớm nở giữa hai người, ngày càng sâu nặng hơn.
“Quả thật là tôi đã có đồng-lõa với hai
người.
“Thứ nhất là vì tôi thấy Đại-Úy Sam thật
tình yêu Diệu-Hương, muốn xây-dựng lâu dài. Anh đi lễ chùa vào rằm,
mồng một âm-lịch, tìm hiểu Ðạo Phật, học hỏi phong-tục
tập-quánViệt-Nam. Anh biếu quà và tham-gia mọi cuộc vui với trẻ em
vào các dịp cuối tuần, nghỉ hè, Trung Thu. Anh đưa
Y-Tế Mỹ đi săn-sóc từng cụ già, cứu-trợ từng nạn-nhân bị Việt-Cộng
pháo-kích, giật mìn. Anh giúp lợp nhà, sửa đường, đào mương,
tích-cực hơn cả cán-bộ của mình. Dân-chúng nhờ anh rất nhiều.
“Mà điều quan-trọng là anh trân-trọng người
yêu, không hề sỗ-sàng bậy-bạ như đa-số
người Mỹ khác. Sam nói riêng với tôi là anh sẽ xin
chính-thức cưới Diệu-Hương. Tôi biết là có nhiều
cô-gái Việt-Nam lấy chồng Mỹ đường-hoàng, nên tôi yên tâm.
“Thứ nữa là vì tôi nghĩ: nếu cho cha+mẹ cô
biết thì chắc ông+bà sẽ cấm hẳn cô tới+lui vớiHội Việt-Mỹ; mà không có cô thì Hội tất-nhiên sẽ tan,
vì anh sẽ dời Hội đi nơi khác, tôi mất việc làm với đồng lương cao và tiền lời
bán đồ giải-khát, bánh, kẹo, cháo, chè mỗi đêm.
“Mãi đến hôm nay, giữ đúng lời hứa với hai
người trong cuộc, tôi vẫn chưa kể cho cha+mẹ cô biết về mối tình giữa hai
người.
“Huống chi Đại-Úy Sam thì đã về
nước từ sau Nô-En năm
ấy, và cô Diệu-Hương thì cũng đã bỏ đi đâu biệt-tích từ sau Nô-En năm ngoái, 1973…”
– Từ
khi Sam rời Việt-Nam, đến khi Diệu-Hương đi biệt, là
hai năm trời, hai người có còn liên-lạc với nhau hay không? Ðời sống
tình-cảm của cô thế nào?
– Anh
vẫn gửi thư đều-đặn, hàng tháng, cho cô, qua tôi; tôi đều chuyển lại tận tay;
nhưng cô nói là cô không trả lời. Tôi không được biết trong thư anh
nói những gì.
“Có nhiều thanh-niên Việt-Nam cũng như
vài ba người Mỹ có vẻ săn đón cô hơn, nhưng cô đối xử với họ bề ngoài
tự-nhiên như đối với Sam trước kia, chứ không có gì khác hơn.
“Cuối năm 1972 thì cô đổi về dạy
ở Tam-Kỳ, thuộc Tỉnh Quảng-Tín; cuối tuần về nhà thường ghé thăm tôi.
“Tôi hiểu là cô rất buồn, ít nói hơn, da xanh
hơn…
“Ðây là bức thư của cô đã viết
cho Sam vào dịp Nô-En năm
ngoái. Cô không gửi nó quaMỹ mà lại nhờ tôi cất giữ như một
bằng-chứng hoặc một di-vật lưu lại cho Sam; tôi không mở xem. Cô
đã dặn tôi: nếu đến hết ngày Nô-En năm
nay, tức là 12 giờ khuya hôm nay, mà Samvẫn không trở lại gặp cô, thì xin
tôi hãy giải giùm lời thề, bằng cách đốt nó ở gốc cây đa, là nơi anh đã đứng đó
nhiều lần hướng về cửa sổ say-đắm nhìn vào…”
*
Lộc-Mỹ, ngày 25/12/1973
Anh Sam yêu-dấu,
Ðây là bức thư đầu tiên mà cũng là bức thư
cuối cùng em gửi anh, người đàn-ông đầu tiên mà cũng là người đàn-ông cuối cùng
trong đời em. Nội-dung chỉ là EM YÊU ANH. Nhưng vấn-đề không
chỉ đơn-giản như ba tiếng “em yêu anh”.
Anh là người Mỹ học-thức, giàu-có, mạnh-khỏe,
trẻ-trung, can-đảm, cần-cù, nhân-ái, vị-tha, hào-phòng, tự-do.
Những
quân-nhân như anh, ngoài các cuộc hành-quân còn dành thêm tâm-trí, công-sức và
thì-giờ để làm công-tác xã-hội giúp ích cho người xung quanh, thật là
hiếm-hoi. Trong cương-vị của anh, anh xứng-đáng tiêu-biểu cho một
dân-tộc hùng-cường, nghĩa-hiệp, vượt vạn dặm trùng-dương đến đây hy-sinh xương
máu để bảo-vệ, kiến-thiết, và phát-triển Việt-Nam nghèo-yếu khổ-nạn quê-hương
em.
Anh là một thanh-niên lịch-thiệp, nói theo
các bạn em là “con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai”, yêu đời, yêu người, biết kính
già quý trẻ, biết tôn-trọng những giá-trị tinh-thần, nhất là tôn-trọng người
mình yêu.
Anh đã cho em biết thế nào là mãnh-lực
ái-tình, thế nào là tình yêu không phân chia chủng-tộc, màu da. Anh
vừa lãng-mạn phác-họa một cảnh gia-đình hạnh-phúc tràn-trề, vừa thực-tế dự-trù
sau khi xuất-ngũ sẽ tiếp-tục học lấy bằng Master, lấy bằng Ph.D., dọn đường cho
sự-nghiệp tương-lai. Anh đặt kế-hoạch cho tiền-đồ của cả hai chúng mình. “Anh
đã cho em Niềm Tin trong Tình Yêu”…
Nhưng vì cha+mẹ em không chấp-nhận việc một
người con-gái Việt-Nam lấy chồng người nước ngoài (em biết điều đó qua nhiều
lần ông+bà phê-bình người khác trước mặt em, và qua lời ông+bà nói với bác Nam
mà bác ấy kể lại với em), nên em đành phải giấu-giếm mọi người, trừ bác Nam mà
em đã thú thật sau này.
Yêu nhau mà phải lén-lút, còn gì bực-bội và
xấu-hổ bằng!
Hy-vọng duy-nhất của em là chờ đến ngày em
hai mươi mốt tuổi, là tuổi hợp-pháp tự mình quyết-định hôn-nhân của mình; nhưng
không phải là để tự-do làm giấy hôn-thú với anh, mà là để dễ thuyết-phục
song-thân em chấp-nhận mối tình của chúng mình, vì em không thể làm một đứa con
bất-hiếu – bất-hiếu
vì làm trái ý cha+mẹ, bất-hiếu vì làm cha mẹ mất mặt với mọi người.
Nhưng, nếu ông+bà vẫn không đồng-ý thì
sao? Ðó là điều mà em không dám giải đáp, vì chỉ nghĩ đến là em đã
thấy sợ rồi.
Ðùng một cái, anh được lệnh
hồi-hương. Một việc bình-thường mà thời-gian qua đắm chìm trong tình
yêu em không nghĩ đến. Hết hạn tùng-quân thì phải về thôi!
Tuy thế, có lý nào chấm dứt mọi sự ngang đây
sao anh?
Nhưng anh đã trấn-an em. Anh hứa
là sẽ tìm đủ mọi cách trở lại Việt-Nam, dù với tư-cách quân-nhân hay nhân-viên
dân-chính, thường-dân.
Qua năm 1972 thì Hội Việt-Mỹ dời đi nơi khác.
Em sống xa anh, lại không còn gần những cảnh
sinh-hoạt thân quen do anh tạo nên và vẫn mang đậm dấu ấn của anh, nên em cảm
thấy cuộc sống trống vắng, lạt-lẽo vô cùng, dù anh vẫn gửi thư về đều đều; nên
qua Nô-En thì em đã xin thuyên-chuyển về dạy ở Tam-Kỳ.
Em về Tam-Kỳ để gần căn-cứ Chu-Lai, để được
thấy các bạn anh nhiều hơn, để đỡ nhớ anh hơn, và để càng nhớ anh hơn.
Anh yêu! Cuộc đời không chiều lòng
người. Nô-En 1972 anh chưa trở lại được, nhưng vẫn còn nhiều
hy-vọng, vì chiến-tranh vẫn còn. Nô-En 1973 anh không trở lại được,
thì đâu còn hy-vọng, vì chiến-tranh không còn. Phải chăng hy-vọng
chỉ còn, tình yêu của chúng ta chỉ còn, khi vẫn còn chiến-tranh, cuộc chiến
khốc-liệt mà chúng mình muốn sớm kết-thúc? Nhưng, kết-thúc như thế
nào, có phải là trong chia-lìa, mất-mát, đổ-vỡ, đau-thương không anh?
Nô-En năm nay em có một quyết-định
mới. Em bỏ gia-đình, em bỏ việc làm, em thử… tìm về Hư-Vô, một cõi
sắc-không không-sắc – như
anh đã có nghiên-cứu và nói là đã lĩnh-hội được rồi – vì
cuộc đời quả là bể khổ, oái-oăm phi-lý quá, phải không anh? Cha+mẹ
em ép buộc em phải kết-hôn với một người mà em không yêu. Thế là em
đã có lý-do để thoát-ly gia-đình mà không làm cho ai đổ lỗi cho anh.
Thời-hạn ba năm của lời thề xưa vẫn
còn. Anh còn một năm để giải lời thề trước cây đa làng
cũ. Anh còn một năm để thử-thách lòng anh. Em đã cố tình
không viết một dòng chữ nào cho anh từ hai năm qua, trừ lời nhắn miệng với các
người bạn mà anh nhờ gặp, rằng em trọn đời yêu anh và sẽ trung-thành với anh,
cốt để giúp anh trắc-nghiệm tình anh. Nếu anh trở lại được, thì anh đi
tìm em được; Tình Yêu sẽ hướng-dẫn anh. Nếu anh không tìm ra em, mà
anh vẫn muốn tìm em, thì đêm Nô-En 1974 em sẽ chờ anh ở Nhà Thờ năm xưa; chậm
lắm là vào 12 giờ khuya ngày 25, phút cuối cùng của thời-gian thử-thách, em sẽ
chờ anh ở gốc cây đa.
Ở gốc cây đa đó, em đã đón nhận nụ hôn đầu
tiên của người khác phái, em đã trao anh nụ hôn đầu tiên của người con gái, là
lần đầu tiên em ngây-ngất mê-ly, là lần đầu tiên em sẵn-sàng chết đi trong vòng
tay siết chặt của người yêu. Ôi, nụ hôn ngọt-ngào như lời thề-nguyền buổi
sáng mùa xuân cuộc đời, mà cũng là nụ hôn đắng-cay mùi vị chia-ly chúng mình
dành cho nhau trước ngày anh xa em.
Anh
không sợ ma, em không sợ ma, nhưng hầu hết những người dân làng ở đây đều sợ
ma. Nhờ họ sợ ma nên họ để yên cho chúng mình gặp nhau giữa khuya
bên gốc cây đa nhiều đêm. Những lần ấy, anh có biết đâu, em lo sợ vô
cùng: không phải là sợ có người biết được mối tình mà chúng mình giữ kín, mà là
sợ Việt-Cộng tìm cách ám-hại anh, vì chúng đã hơn một lần muốn nhờ tay em…
Bây giờ thì anh đã hiểu rồi
đấy. Nụ hôn biểu-hiện lời thề. Ðời em chỉ hôn một người;
người đó, trên đạo-lý, đã là chồng em.
Em còn nhớ mấy câu Kinh Thánh mà anh đã giảng
cho em: “Không được thề dối!” và “Không được phạm tội ngoại-tình!”; và: “Hễ ai
ly-dị vợ mà không phải vì cớ vợ mình gian-dâm thì tức là khiến cho nàng
ngoại-tình!” (Matthew 5:33, 27, 32)…
Em không ngoại-tình, em không gian-dâm; em
chỉ yêu một mình anh. Nếu không có anh thì em sẽ là hư-vô, vì đời trở
nên hư-vô.
Ðây cũng là một cuộc thử-thách tối-trọng và
tối-hậu về phần em: do nơi anh, và do lời hẹn của anh, em sẽ trở về sống với
hạnh-phúc trần-gian, hay sẽ tiếp-tục và vĩnh-viễn trở thành
sắc-không…
D.H.
*
– Và đây
là mười hai bức thư của Sam; Diệu-Hương không ghé lấy từ mười
hai tháng nay…
Trời đã xế chiều. Tôi tranh-thủ mở
đọc bức thư mới nhất của người thanh-niên đã từng một thời là Đại-Úy Sam:
New York, December 1974
Diệu-Hương,
người yêu duy-nhất của anh:
Cả ba năm nay em không viết thư cho
anh. Anh chấp-nhận, vì đó là ý muốn của em mà em đã nói cho anh biết
trước rồi; nhưng trong thâm-tâm anh bao giờ cũng mong ước và ngóng chờ thư em.
Vậy mà giờ đây thì anh không còn trông đợi
thư em nữa, em biết vì sao không?
Ngay khi gặp em là anh yêu
em. Ðồng-thời, sau khi đã ở Việt-Nam rồi, đã hiểu Việt-Nam rồi, là
anh yêu luôn Ðất Nước và đồng-bào em.
Anh về Hoa-Kỳ không phải chỉ để vận-động trở
lại Việt-Nam với em mà thôi, mà là còn để nói lên tiếng nói của lương-tri,
chống lại phong-trào phản-chiến, kêu gọi tinh-thần khử-bạo phù-nguy vốn là
truyền-thống cao-đẹp của dân-tộc Hoa-Kỳ.
Thế nhưng kết-quả ngược lại.
Ma-quỷ đang hồi cực mạnh; người ta không nghe
tiếng nói thống-thiết của những con người chính-trực như anh, thậm-chí bác đơn
thỉnh-cầu của anh xin được một lần trở lại Việt-Nam.
Và bây giờ thì nước Mỹ đã bỏ cuộc rồi.
Anh còn mặt-mũi nào sống trên đời này mà làm
người thua cuộc, hả em? nhất là trong cuộc tình của chúng mình mà hạn chót của
lời thề đã đến rồi.
Trong quá-khứ, nước Mỹ đã từng cứu Pháp, giúp
Ðức, tiếp-trợ Âu-Tây, nâng Nhật-Bản, vớt Ðại-Hàn, che-chở Á-Ðông.
Trong tương-lai, nước Mỹ chắc-chắn sẽ còn
hành-hiệp cái-thế độ-nhân.
Nhất-định mọi người sẽ phải xét lại thái-độ
yếu hèn của ngày hôm nay.
Riêng đối với em, anh đã giữ tròn danh-tiết
cho em.
Trong đêm cuối cùng, bên gốc cây đa, em đã
lịm người trong vòng tay anh, phó mặc hoàn-toàn cho anh. Nhưng anh kính-trọng
tinh-thần văn-hóa Ðông-Phương…
Anh sẽ không để cho ai biết gì về mối tình
vô-vọng của chúng mình.
“Khối tình mang xuống tuyền-đài khôn tan…”
Nếu còn có thoáng chốc nào em nhớ đến anh,
thì xin em hãy tin rằng, đến tận hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình, anh vẫn
chỉ biết một lòng yêu em.
Tình Yêu ấy là sinh-khí cho hình-hài này, vốn
là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất mà thôi.
Xin cho linh-hồn anh được thanh-thoát, làm
một Romeo, một Trương Chi…
SAM
*
Thiếu-Tá Sơn, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh
sở-tại, nãy giờ ghé mắt cùng đọc theo tôi, phát-biểu:
– Như
thế là cô Diệu-Hương đã tái xuất-hiện ở Nhà Thờ đêm qua, và sẽ có mặt
ở gốc cây đa đêm nay…
Tôi nghĩ: “Ðoạn cuối câu chuyện
không thuộc nhiệm-vụ của mình. Mình chỉ tìm biết xem cô là ai, lâu
nay làm gì, ở đâu; thế thôi”.
Tôi bắt tay từ-giã Sơn:
– Tất cả
thư-từ, và những việc gì xảy ra đêm nay, về sau, hoàn-toàn để tùy
bác Nam giải-quyết. Bây giờ thì tôi phải về; còn nhờ
anh Hòa trong Quảng-Ngãi,
anh Song trong Quảng-Tín, và
anh Ðảm ngoài Thừa-Thiên, dĩ-nhiên là cả anh nữa, tìm xem cô
đang tu ở chùa nào…
*
Ðà Nẵng,
ngày 25 tháng 12 năm 1974
PHIẾU TRÌNH
Kính trình… tại SÀI-GÒN
Tiếp theo công-điện số…
Kính xác-nhận điện-trình sơ-khởi về việc…
Văn-Phòng Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu I xác-nhận
chính Thiếu-Tướng Hoàng Văn Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, thừa lệnh Cấp
Trên, với sự hướng-dẫn của trung-tá Quận-Trưởng QuậnĐại-Lộc, đã dùng trực-thăng
đưa hai người Mỹ liên-hệ đến Xã Lộc-Mỹ trưa ngày hôm nay,
25-12-1974.
Hai người Mỹ ấy là đại-diện của một
văn-phòng Chưởng-Khế Mỹ, thi-hành di-chúc của một người tên Sam.
Theo di-chúc của Ông Sam thì sau khi ông tự-tử chết đi, thi-hài được
thiêu thành tro, đem đến chôn ở hàng-rào của trường tiểu-học Xã Lộc-Mỹ,
thuộc Quận Ðại-Lộc, Tỉnh Quảng-Nam,Việt-Nam, ngay hướng mắt nhìn từ
gốc cây đa vào khung cửa sổ Lớp Năm, giữa ngày Nô-Ennăm nay…
Chúng tôi đã đến tận nơi tìm hiểu, được biết:
Nguyên…
*
Sáng sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hìnhbáo-cáo rằng các Chánh Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm.
Sáng sau, tôi đang đọc lại bản lưu Phiếu Trình nói trên thì Sĩ-Quan Trực Phòng Tình-Hìnhbáo-cáo rằng các Chánh Sở Ðặc-Cảnh các Tỉnh đã có mặt sẵn, đang chờ lệnh tôi trên máy điện-đàm.
Thiếu-Tá Thái Văn Hòa của
Tỉnh Quảng-Ngãi được tôi hỏi trước, trả lời:
– Ở
Tỉnh Quảng-Ngãi có chùa Thiên-Ấn và nhiều chùa khác, nhưng
không có ni-cô nào giống với đối-tượng cần tìm…
Thiếu-Tá Ðặng Văn Song, Chánh-Sở của
Tỉnh Quảng-Tín, báo-cáo là chưa tìm ra.
Chánh-Sở Trương Công Ðảm của
Tỉnh Thừa-Thiên liền xin xác-nhận:
– Ngoài
này chúng tôi đã tìm ra được cô rồi.
“Cô ở ngay Chùa Sư-Nữ nổi tiếng của Miền Trung.
Tại đây, cô giấu lý-lịch; ngoại-trừ Sư-Bà trụ-trì, còn với người khác thì cô
xưng một tên khác, nhưng thường chỉ dùng pháp-danh mà thôi. Cô không
bao giờ tiếp-xúc với người ngoài chùa. Trước đây đã có nhiều người
từ trongÐại-Lộc ra tìm, nhiều lần mà không gặp được. Riêng ngày
hôm kia, cô đã xin phép đi vàoQuảng-Nam thăm nhà…”
Tôi cám ơn các anh, rồi hỏi Thiếu-Tá Lâm
Minh Sơn của Tỉnh Quảng-Nam tình-hình đêm qua thế nào.
Sơn đáp:
– Ðêm
qua, chúng tôi không thấy Diệu-Hương đến gốc cây đa. Có lẽ
cô đã nấp kín, cũng gần đâu đó mà thôi. Nhưng không
thấy Sam xuất-hiện thì cô đến đó làm gì!
“Còn bác Nam thì, vào lúc 12 giờ
khuya, sau khi đốt xong bức thư của cô ở gốc cây đa, đã chôn luôn các bức thư
của Sam vào chỗ đã chôn cái hộp mới được đưa đến từ nửa vòng trái đất
bên kia…”
LÊ XUÂN NHUẬN (hồi ký)
304Đen – Llttm - VT
No comments:
Post a Comment