TỬ HÌNH KHỦNG BỐ VC TRẦN
VĂN ĐANG TẠI PHÁP TRƯỜNG CÁT
(TÀI LIỆU LỊCH SỬ CŨ)
Tử Hình Khủng Bố Việt Cộng Trần Văn Đang tại
Pháp Trường Cát Saigon ngày 22.6/1965.
Chi tiết vụ án:
Luật sư Nguyễn Văn Chức, người được luật sư
đoàn Sài Gòn chỉ định biện hộ (thày cãi) cho Trần Văn Đang, đã kể lại sự vụ của
y như dưới đây.. Xin chép lại (trích trong báo Con Ong số 84) để quý bạn đọc
thấy trong số các nạn nhân của Việt Cộng, cũng có cả các liệt sĩ của chúng như
trường hợp Trần Văn Đang ở trong bài viết này.
" Tôi về đến nhà, đã thấy chiếc xe mô tô
đen của trung sĩ Ân đỗ trong sân. Ân giơ tay chào, đưa cho tôi một phong thư
mầu vàng của tòa án Mặt Trận, và yêu cầu tôi đọc ngay. Phong thư đóng dấu
" tối mật ". Tôi xé ra. Bức thư bên trong chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ
đánh máy, nhưng tôi đọc rất lâu. Tôi ký sổ biên nhận, rồi bước vào trong nhà. Ân có chào tôi hay không, và chiếc mô tô rồ máy bỏ
đi lúc nào, tôi cũng không để ý. Tôi đang bận nghĩ đến hắn...
Cách đây khoảng 3 tháng, luật sư đoàn Sài Gòn
chỉ định tôi biện hộ cho hắn trước tòa án Mặt Trận Vùng Ba Chiến Thuật. Hắn là
tên đặc công bị bắt trong khi đặt chất nổ trên đường Tự Do. Hắn bị truy tố về
hai tội phản nghịch và mưu sát; hắn có thể bị tử hình. Sau khi xem xong hồ sơ,
tôi vào nhà lao để gặp hắn. Đây là một thói quen nghề nghiệp, và cũng là một
cái thú. Nói chuyện với tử tù, thường phạm hay chính trị, đôi khi hấp dẫn hơn
đọc một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất.
Tôi ngồi trong phòng đợi, nhìn ra vạt sân nắng
bên kia chấn song sắt, rồi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Trỗi. Trước đây, Trỗi cũng
đã ngồi nói chuyện với tôi trong căn phòng này. Trỗi khóc như một đứa con nít,
thỉnh thoảng đưa hai tay lên vắt nước mũi rồi quẹt xuống gầm bàn. Trỗi còn trẻ,
mới 26 tuổi, nhưng trông già như người 40.
Hắn trẻ hơn Trỗi. Khi nhân viên nhà lao dẫn
hắn đến gặp luật sư, miệng hắn đang còn nhai nhóp nhép, hình như là khô mực.
Người hắn sặc mùi dầu khuynh diệp. Hắn khép nép ngồi xuống một cái ghế trước
mặt, rồi chăm chú nhìn tôi. Lúc đó tôi mới để ý đến cái đầu húi cua và khuôn
mặt non nớt của hắn. Khác hẳn với tấm hình đăng trên các báo: tóc dài bù xù, và
mặt nhăn nheo như mang đầy thẹo. Tôi mỉm cười hỏi: " Em vừa húi tóc?
". Hắn gật. Tôi lại hỏi: " Em là Trần Văn Đang? ". Hắn gật.
- Em có bí danh Sáu Nhỏ, Hai Gà, Năm Lựu Đạn,
có phải vậy không? Hắn gật.
- Em bị bắt khi đặt chất nổ trên đường Tự Do,
có phải vậy không? Hắn gật.
Tôi nói cho hắn biết: tôi là luật sư sẽ cãi
cho hắn trước tòa, hôm nay tôi vào nhà lao gặp hắn để tìm hiểu thêm về tội
trạng của hắn. Và tôi yêu cầu hắn kể lại tất cả sự việc từ đầu đến cuối, để
giúp tôi phối kiểm lại hồ sơ.
Hắn nhìn tập hồ sơ trên bàn, rồi nhìn ra ngoài
sân rất lâu, như đang suy nghĩ lung về một vấn đề. Tôi cũng nhìn hắn và chợt
thấy hắn dễ thương. Hắn vẫn ngồi im. Tôi hỏi: " Khi lấy cung, người ta có
tra tấn và hăm dọa em không? ". Hắn mở to mắt nhìn tôi. Tôi lại dục:
" Em nên kể lại tất cả sự việc, từ lúc được móc nối cho đến khi bị bắt, bị
hỏi cung. Em kể lại hay không, đó là quyền của em. Em cũng có thể từ chối không
nhận tôi là luật sư của em và chọn một luật sư khác. Đó là quyền của em ".
Hình như tôi còn nói nhiều nữa. Tôi muốn đến
gần hắn, tôi muốn được " hân hạnh " nói chuyện với hắn.
Hắn nhìn tôi, tỏ vẻ dè dặt. Tôi đợi một lúc
khá lâu, rồi lại hỏi: " Tất cả những điều em khai trong hồ sơ đều là sự
thật, có phải vậy không? ". Hắn gật đầu một cách thản nhiên.
Bên ngoài vạt nắng đã thu hẹp lại ở góc tường
bao quanh cái sân nhỏ. Tiếng người gọi đi thăm nuôi, tiếng quát tháo, tiếng
chửi thề.... đã bắt đầu thưa thớt. Tôi không đeo đồng hồ, và trong phòng cũng
không có đồng hồ, nhưng tôi đoán lúc đó khoảng 4 giờ chiều, nghĩa là gần hết
giờ thăm nuôi phạm nhân. Riêng tôi, vì là luật sư, tôi có thể nói chuyện với
thân chủ cho đến 5 giờ chiều. Khổ một nỗi, thân chủ lại không muốn nói chuyện với
luật sư. Tôi đành phải làm cái công việc bất đắc dĩ của nghề nghiệp, là tóm tắt
hồ sơ và đọc những điểm quan trọng cho thân chủ nghe, để thân chủ hoặc xác
nhận, hoặc phủ nhận.
Hồ sơ hắn dầy gần trăm trang đánh máy, gồm
phúc trình của CS và An Ninh Quân Đội. Cô thư ký của tôi đã chép độ 20 trang
quan trọng nhất. Riêng tôi đã lận đận trọn một ngày ở tòa án Mặt Trận để đọc
lại toàn bộ hồ sơ và ghi chú thêm. Lận đận như vậy, vì lương tâm nghề nghiệp,
và cũng vì tò mò nghề nghiệp. Trong những vụ án chính trị lớn tại miền Nam, tôi
từng tiêu hoang thì giờ tại tòa án, để đọc và suy nghĩ về những lời khai của
các bị can. Nhờ đó, tôi đã biết được cái lý do sâu xa đã khiến văn hào Nhất
Linh-Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự vận, một ngày trước khi tòa xử.
Tôi giở hồ sơ hắn ra và bắt đầu đọc:
Hắn sinh tại Gò Dầu Hạ, bố vô danh. Mười lăm
tuổi, hắn mồ côi mẹ và được người chú mang lên làm công cho một tiệm sửa xe
Vespa tại đường Trương Minh Giảng-Sài Gòn. Trong thời gian sống ở Sài Gòn hắn
làm quen với một tên Tư. Tên này " xây dựng " hắn, và gửi hắn vào
bưng học tập.
Bốn tháng sau, hắn trở về Sài Gòn hoạt động trong tổ
đặc công của tên Tư. Một ngày trước khi bị bắt, hắn được tên Tư cho đi ăn uống
tại một con hẻm đường Nguyễn Huệ. Sau bữa ăn, cả hai thả bộ ra đường Tự Do để
quan sát địa điểm hành động. Đó là một cái " bar " Mỹ mà hắn đã từng
đi ngang qua nhiều lần.
Chiều hôm sau, một buổi chiều thứ Bẩy, tên Tư đem về
hai cái bọc, mỗi cái đựng 10 kg thuốc nổ và bộ phận nổ chậm. Tên Tư gài bộ phận
nổ chậm, rồi đặt cái bọc thứ nhất trong thùng một chiếc Vespa mầu xanh. Cái bọc
thứ hai được đặt trong thùng một chiếc Vespa mầu trắng. Rồi cả hai cùng đi tới
địa điểm hành động. Lúc đó, đồng hồ nhà tên Tư chỉ đúng 5 giờ 15 phút.
Hắn cưỡi chiếc xe Vespa mầu xanh, tên Tư cưỡi chiếc
xe mầu trắng, hai xe cách nhau khoảng 200 thước. Hắn có nhiệm vụ phá cái bar Mỹ
đã quan sát chiều hôm trước. Còn tên Tư có nhiệm vụ phá cái bar khác gần khách
sạn Eden Rock ở cuối đường Tự Do. Khoảng 15 phút sau, hắn tới cái bar Mỹ. Hắn
ngừng xe lại, còn tên Tư tiếp tục đi về phía cuối đường Tự Do.
Hắn xuống xe, nhấc chiếc Vespa lên lề đường, rồi dắt
chiếc xe về phía cái bar Mỹ. Theo chỉ thị của tên Tư, hắn có nhiệm vụ đỗ chiếc
xe Vespa trước cửa cái bar Mỹ rồi bỏ đi. Tên Tư cũng cho hắn biết: quả mìn sẽ
nổ đúng 6 giờ. Hắn không đeo đồng hồ.
Hắn biết chắc hắn còn nhiều thì giờ, ít nhất là 15
phút để thi hành phận sự. Hắn lấy chân đạp vào chiếc cần sắt của chiếc Vespa,
kéo ngược chiếc Vespa lên và dựng chiếc Vespa ngay trước cửa bar. Hắn chưa kịp
bỏ đi, thì người cảnh sát đứng bên kia đường thổi còi và ngoắc tay làm hiệu cho
hắn phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Hắn đâm ra lúng túng, và trong lúc hạ cần xe
xuống, hắn làm đổ chiếc Vespa. Hắn hì hục dựng chiếc Vespa lên.
Người cảnh sát bên kia đường lại thổi còi. Hắn đâm
ra hốt hoảng. Chiếc Vespa trở nên quá nặng đối với hắn.. Hắn sẽ phải dựng chiếc
xe lên. Hắn sẽ phải dắt chiếc xe đi chỗ khác. Và hắn chợt nhớ tới quả mìn. Quả
mìn sẽ nổ banh xác hắn. Hắn không kịp nghĩ thêm gì nữa. Hắn rầm chạy. Hắn chạy
ngược về phía tiệm sơn mài Thành Lễ.
Mấy
người cảnh sát bên kia đường rút súng, huýt còi đuổi theo. Và hắn đã bị bắt.
Khoảng 20 phút sau, nhân viên cảnh sát lục soát chiếc xe Vespa và đã tìm thấy quả
mìn. Theo phúc trình của cảnh sát, thì bộ phận nổ chậm bị hư, nếu không, quả
mìn đã nổ vào lúc 5 giờ 50 phút, nghĩa là lúc hắn đang lúng túng với chiếc xe
Vespa. Theo hồ sơ, hắn nhận hết tội, tại nha CS cũng như tại An Ninh Quân Đội,
và không một lần nào phản cung. Hắn có vợ và một đứa con trai 10 tháng.
Tôi
đọc hồ sơ rất chậm, chờ đợi ở hắn một phản ứng, một cử chỉ, một lời nói. Nhưng
tôi đã đọc hết dòng chót, mà hắn vẫn ngồi im, mặt cúi gầm xuống đất.. Có lẽ hắn
không nghe tôi đọc. Tôi
muốn hỏi hắn về những điểm trong hồ sơ, nhất là về tên Tư nào đó. Nhưng nhân
viên nhà lao đã bước vào cho tôi biết chỉ còn đúng 5 phút với hắn. Tôi nhìn ra
ngoài, thở dài. Vạt sân đã hết nắng. Khi xốc hồ sơ bỏ vô cặp, tôi vô ý làm rớt
tấm ảnh của thằng con trai tôi mới được 8 tháng.
Tôi chợt nhớ ra: hắn cũng có một đứa con trai trạc
tuổi đó. Tôi liền hỏi: " Từ ngày em bị bắt, em đã gặp con chưa? ".
Hắn nhìn tôi rất nhanh, đôi mắt vụt trở nên khẩn thiết. Tôi lại hỏi: " Em
có muốn gặp vợ con em không? ". Hắn túm tím miệng, nuốt nước bọt cái ực,
rồi nói một cách vội vàng: " Ông có giúp tôi được không? ". Tôi gật.
Lúc
đó hắn mới cho tôi biết: theo lời khuyên của tên Tư, một tuần trước khi đặt
chất nổ, hắn đã cho vợ con về sống với quê ngoại ở Mỏ Cày. Hắn hy vọng vợ hắn
đọc báo đã biết tin hắn bị bắt và đã đem con lên Sài Gòn ở với người chú. Hắn
cho tôi hai địa chỉ ở miệt Cầu Ông Lãnh, và xin tôi làm mọi cách để vợ con hắn
vào thăm hắn trong tù. Hình như hắn muốn nói nhiều nữa, nhưng nhân viên nhà lao
đã bước vào đem hắn đi. Hắn bỗng nắm chặt bàn tay tôi, cánh tay run run. Hắn
nhìn tôi, và tôi thấy mắt hắn ướt.
Chiều hôm ấy, khi ra khỏi nhà lao, tôi lái xe
thẳng đến khuôn viên nhà thờ Đức Bà, gửi xe cho một đứa bé, rồi thuê xích lô
đạp về chợ Cầu Ông Lãnh. Tối mịt, tôi mới ra về. Tôi không tìm thấy vợ con hắn.
Trưa hôm sau, tôi viết hai lá thư, một cho
người chú, một cho vợ hắn, báo tin ngày tòa xử và nhắn vợ hắn đến văn phòng tôi
để làm thủ tục xin giấy đi thăm nuôi chồng. Ký xong bức thư, tôi vào nhà lao
báo cho hắn biết về cuộc tìm kiếm của tôi. Nhưng tôi không được gặp hắn: hắn đã
bị trả về An Ninh Quân Đội để bổ túc hồ sơ. Từ hôm đó đến ngày xử, tôi không có
dịp gặp hắn nữa.
Hôm tòa xử, tôi đi rất sớm. Mới 8 giờ sáng tôi
đã có mặt ở bến Bạch Đằng. Khi lái xe vào cổng tòa án Mặt Trận, tôi thấy một
thiếu phụ ôm con ngồi nép ở lối đi, bên cạnh một cái lẵng mây. Không hiểu sao
tôi nghĩ đó là vợ hắn. Tôi đỗ xe trong sân tòa án, rồi đi bộ ra cổng gặp người
thiếu phụ. Tôi hỏi ngay: " Chị là vợ anh Đang? ". Thiếu phụ gật.. Tôi
hỏi: " Chị được tin hôm nào? ". Thiếu phụ cho biết: khi đọc báo biết
tin chồng bị bắt, chị muốn lên Sài Gòn ngay, nhưng vì đứa con đau nặng, nên ông
bà già không cho đi. Cách đây bốn hôm, chị nhận được thư của người chú báo tin
ngày tòa xử, vả lại đứa con cũng đã gần hết bịnh, nên ông bà già cho đi.
Tôi nhìn đứa bé nằm ngủ trong lòng mẹ. Da nó
xanh mét. Thỉnh thoảng nó cựa mình rên khe khẽ, người mẹ lại vỗ nhẹ lên người
nó để ru. Chị ta hỏi tôi: " Thưa ông, liệu ảnh có việc gì không? ".
Tôi không tìm được câu trả lời. Tôi nhìn đứa bé rồi hỏi: " Cháu được mấy
tháng? ". Chị ta trả lời: " Con sanh cháu được 10 tháng thì ảnh bị
bắt ".
Bỗng có tiếng còi hụ và tiếng người nhốn nháo.
Tôi nhìn về phía đường Bạch Đằng. Một chiếc xe nhà binh đang trờ tới. Đó là xe
chở tội nhân. Những người đứng dưới đường vội vàng dạt ra hai bên để cho xe
quẹo vào cổng tòa án. Khi chiếc xe đi ngang qua, tôi nhìn thấy hắn, và người vợ
cũng nhìn thấy chồng. Chị ta vội vã đứng lên, một tay xách chiếc lẵng mây, một
tay ôm con, lễ mễ chạy vào trong sân tòa.
Đoàn tội nhân đã xuống khỏi xe, đứng xếp hàng
giữa sân tòa. Hắn đứng ở hàng chót, ngơ ngác nhìn quanh như tìm kiếm. Vợ hắn
gọi lớn: " Anh hai, em và con đây nè ". Hắn quay mặt về phía tiếng
gọi, và khi trông thấy vợ hắn, hắn giơ hai tay bị còng lên như muốn ôm ghì một
hình bóng. Vợ hắn đứng cách xa hắn chỉ một khoảng sân nhỏ. Chị ta bỏ chiếc lẵng
mây xuống đất, ôm con xăm xăm chạy về phía hắn. Nhưng người lính đã ngăn chị ta
lại, rồi ra lệnh cho đoàn tội nhân đi vào hành lang. Đây là một lối đi lộ
thiên, nằm giữa hai bức tường của hai dãy nhà quay lưng vào nhau. Người ta dùng
chỗ đó để tạm giữ tội nhân, trong khi chờ tòa gọi tội nhân ra trước vành móng
ngựa.
Hắn ngồi hàng chót, nép vào chân tường. Tay
hắn đã được mở còng. Vợ hắn lễ mễ ôm con lại gần. Người lính định cản lại,
nhưng thấy tội nghiệp, nên đã để cho đi qua.
Tôi chỉ kịp trông thấy người đàn bà ngồi thụp
xuống đất bên cạnh người chồng rồi khóc nức nở. Hắn không khóc, mở to mắt nhìn
về trước mặt, một tay để lên vai vợ, một tay vuốt tóc con. Lúc sau người vợ lấy
vạt áo lau nước mắt, rồi lấy ở trong lẵng ra một xị nước ngọt đựng trong túi
nylon đưa cho chồng: " Anh uống đi cho đã khát, em có mua cho anh ổ bánh
mì thịt ở trong lẵng ". Hắn rời tay khỏi vai vợ, đỡ lấy túi nước ngọt đưa
lên môi, nhưng tay kia vẫn sờ trên mình đứa con, đôi mắt dịu hẳn xuống. Trong
một lúc tình cờ, hắn ngẩng đầu lên.. Hắn nhìn thấy tôi đứng bên kia tường. Tôi
giơ tay làm hiệu chào hắn.
Chỉ còn độ một hai giờ nữa, tòa sẽ kêu đến vụ
hắn. Tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhưng tôi không nỡ làm bận rộn cuộc xum họp
mà tôi linh cảm là cuộc xum họp lần chót. Tôi thở dài ái ngại, rồi bỏ đi ra
phía sân tòa. Thời gian như chậm lại. Hắn, con hắn, vợ hắn, lởn vởn trong đầu
tôi. Làm thế nào để cứu hắn khỏi chết? Làm thế nào để tòa án hiểu rằng: hắn, cũng như Nguyễn Văn Trỗi, cũng như bao thanh
thiếu niên khác, chỉ là nạn nhân đáng thương của một
hệ thống đểu cáng và vô nhân đạo nhất lịch sử loài người.
Mãi mười một giờ trưa, tòa mới kêu đến tên
hắn. Hắn từ hành lang đi ra, bên cạnh hai người lính. Vợ hắn lễ mễ ôm con theo
từ đằng xa, rồi ngồi xuống một chiếc ghế cuối phòng xử. Phòng xử hôm đó đông
nghẹt dân chúng. Bên ngoài, trời oi ả như sắp có cơn dông.
Trước vành móng ngựa, hắn nhỏ bé và non nớt
hơn cái hôm tôi gặp hắn trong nhà lao. Da hắn xanh mướt, và nét mặt thản nhiên.
Tôi đến bên hắn, hắn quay lại nhìn tôi một thoáng rồi lại nhìn thẳng đàng trước
mặt. Không khí nặng nề.
Cả phòng xử im lặng. Ông chánh thẩm hỏi lý lịch, rồi
truyền cho hắn trở về ghế bị can để nghe bản cáo trạng. Tôi cũng từ vành móng
ngựa đi theo xuống ngồi bên cạnh hắn. Hắn xích lại gần, như để tỏ lòng biết ơn.
Viên lục sự bắt đầu đọc bản cáo trạng, tiếng ông ta vang lên đều đều. Cả tòa,
từ ông chánh thẩm, ủy viên chính phủ, đến công chúng ngồi dưới, đều lắng tai
nghe. Chỉ có hắn là không. Hắn nhìn đăm đăm đàng trước mặt, như đang suy nghĩ.
Có lẽ hắn nghĩ tới vợ con hắn. Một lần, tôi chợt thấy hắn quay đầu lại nhìn
xuống cuối phòng xử, như muốn tìm xem vợ con hắn ngồi ở đâu.. Bỗng nhiên, mặt
hắn biến sắc, tay hắn run run, đầu cúi rầm xuống.
Viên lục sự đã đọc xong bản cáo trạng. Hắn rời
ghế bị can, rồi cùng tôi bước lên vành móng ngựa.
Ông chánh thẩm hỏi: " Anh đã nghe bản cáo
trạng. Anh bị cáo về tội phản nghịch và mưu sát. Anh có nhận tội không? ".
Hắn gật đầu.
- Anh có thể kể lại cho tòa nghe tất cả sự
việc từ đầu đến cuối không?
Hắn nhìn ông chánh thẩm, nhìn bồi thẩm đoàn,
nhìn ủy viên chính phủ, nhìn tôi, rồi lắc đầu.
Ông chánh thẩm lại hỏi: " Có phải anh đã
đỗ chiếc Vespa trước cái bar Mỹ? ". Hắn gật.
- Anh có biết chiếc Vespa có chất nổ không?
Hắn gật.
- Anh đỗ chiếc Vespa trước cửa bar, để phá cái
bar đó, có phải không?
Hắn gật.
- Tên Tư bao nhiêu tuổi, vóc dáng như thế nào?
Hắn đứng im không trả lời.
Ông chánh thẩm nhìn tôi, tôi nhìn ông ta. Một
bên ở vào cái thế khó xử, một bên ở cái thế khó cãi. Đại tá Ủy viên Chính Phủ
bỗng quát lớn: " Tại sao bị can không trả lời? ". Hắn ngước mắt nhìn
ủy viên chính phủ, rồi đứng im như pho tượng.
Khi tòa trao lời cho ủy viên chính Phủ chính
thức đặt câu hỏi, thì ủy viên chính phủ nhún vai, như muốn nói với tòa rằng ông
không có gì để hỏi một bị can chỉ biết gật với lắc đầu. Nhưng chỉ một vài giây
sau, ông nói như hét: " Thằng Tư, tên thật nó là gì. Địa chỉ nó ở đâu? ".
Hắn lại nhìn ủy viên chính phủ rồi im lặng. Một lần nữa, ủy viên chính phủ lại
nhún vai và làm cái cử chi quen thuộc để tòa hiểu rằng ông ta không còn gì để
hỏi nữa.
Đến lượt tôi đặt câu hỏi. Tôi hỏi hắn: " Khi bị lấy cung tại nha CS và An Ninh Quân
Đội, em có bị tra tấn hoặc bị hăm dọa không? ". Hắn lắc đầu. Tôi lại hỏi: " Em có hối hận vì đã trót nghe lời dụ dỗ của
tên Tư không? ". Hắn cúi
gầm mặt xuống lắc đầu.
Tôi đã đưa ra hai cây sào để cứu hắn. Không
ngờ hắn đã từ chối không nắm lấy và hình như còn thích thú để cho nước cuốn
trôi đi. Nước mắt người vợ và tình thương con đã không làm hắn thay đổi. Một
đời luật sư, tôi từng ngang dọc trong những vụ kiện lớn của chế độ, nhưng chưa
bao giờ tôi cảm thấy mình bất lực như hôm nay.
Ủy viên Chính Phủ đứng lên buộc tội. Trong 15
phút hùng biện, ông gay gắt lên án bị can. Ông nhấn mạnh đến trường hợp quả
tang phạm pháp, đến bản chất của tội trạng (phản nghịch và mưu sát) và sự ngoan
cố của bị can. Ông kết luận: " Trong cuộc đấu tranh chống lại bọn cộng sản
" kẻ thù của dân tộc " chúng ta cần phải nghiêm trị những bọn phá
hoại, những tên cán bộ nằm vùng, những tên đặc công khủng bố giết người không
gớm tay.
Nếu hôm đó quả mìn nổ, bao nhiêu dân chúng qua đường
đã bị chết thảm, bao nhiêu người dân vô tội đã bị què cụt đui mù... ". Ông
yêu cầu tòa lên án tử hình. Tòa trao lời cho tôi.
Trách nhiệm của tôi quá lớn, và nhiệm vụ của tôi quá
khó khăn. Tôi biện hộ cho một bị can phạm tội phản nghịch và mưu sát với trường
hợp gia trọng. Bị can ấy
nhận tội tại nha CS, tại An Ninh Quân Đội, và trước tòa án. Bị can ấy từ đầu
đến cuối không lúc nào phản cung. Bị can ấy từ chối không trả lời tòa án, không
trả lời ủy viên chính phủ, không trả lời luật sư. Bị can ấy im lặng tuyệt đối,
như để bảo mật cái tổ đặc công giết người của
hắn, theo một mệnh lệnh...
Giọng tôi trầm trầm. Tôi nói, hình như không phải
cho tòa nghe, mà cho chính tôi nghe. Tôi nói, để cố trả lời cho những câu hỏi
mà chính tôi đang thắc mắc. Tại sao hắn không có một lời để tự bào chữa? Tại
sao hắn đã nhận tội một cách thản nhiên, và không một lần nào phản cung, trong
hồ sơ cũng như trước tòa án? Hắn là một tên đặc công bị bắt quả tang trong khi
đặt chất nổ, chắc chắn hắn đã bị tra tấn của công an trong khi lấy cung. Tại
sao hắn không nói điều ấy ra trước tòa? Và tên Tư? Tên Tư là ai? Tại sao hắn
lại im lặng không chịu cung khai về tên Tư? Tại sao hắn lại từ chối không trả
lời những câu hỏi có lợi cho hắn?
Không ai muốn chết. Không ai muốn bị hành
hình. Không ai muốn bị đập chết như một con chó ở góc tường, như những nhân vật
trong tiểu thuyết Kafka. Huống chi, hắn mới 21 tuổi, có vợ, có con, và thương
vợ thương con. Thế thì tại sao hắn lại im lặng? Chỉ có một câu trả lời. Hắn bị
quyến rũ phạm tội ác, và sau khi bị bắt, hắn vẫn bị theo rõi. Hắn sợ vợ con hắn
bị trả thù, hắn đã phải im lặng, tuyệt đối im lặng. Biết đâu trong phòng xử hôm
nay, lại không có tên Tư nào đó đang ngồi theo rõi hắn.
Hướng về phía ông Ủy viên Chính Phủ, tôi nói như tâm
sự: " Tôi đồng ý với ông là chúng ta, những người quốc gia, phải thẳng tay
trừng trị, nếu cần, phải giết những tên đặc công gian manh, những tên cán bộ
khát máu, những tên đặc công giết người không gớm tay. Nhưng trong hiện vụ, tôi
không nghĩ bị can là một tên cộng sản gian manh, một tên cán bộ khát máu, một
tên giết người không gớm tay. Và đây là điểm cực kỳ quan trọng: quả mìn hôm ấy
đã không nổ ".
Kết luận, tôi yêu cầu tòa khoan hồng. Bị can
mới hai mươi mốt tuổi, chưa hề can án, có vợ còn trẻ và con còn nhỏ, vì vậy
đáng được hưởng sự khoan hồng của luật pháp.
Sau lời biện hộ của tôi, tòa hỏi hắn: "
Luật sư đã biện hộ cho anh rồi. Anh có quyền nói lời chót. Anh muốn nói gì
không? ". Hắn lắc đầu. Tòa ngưng xử, bước vào phòng để nghị án. Khoảng một
giờ sau, tòa trở lại tuyên án: tử hình. Lập tức, hắn bị còng tay mang đi. Lúc
đó, đã quá trưa, những đám mây đen từ đâu kéo về bao kín cả một góc trời đã mất
ánh sáng. Dân chúng kéo nhau ra về. Tôi xách cặp đi ra xe như người mất hồn.
Khi lái xe qua cổng tòa án, tôi thấy vợ hắn ôm con ngồi khóc. Tôi về văn phòng,
viết đơn xin ân xá cho hắn. Đây chỉ là thủ tục tòa án, nhưng tôi đã làm với tất
cả sự cẩn trọng của một lễ nghi tôn giáo. Tôi muốn cứu hắn khỏi chết. Vì nhân
đạo. Vì nghề nghiệp. Và cũng vì trường hợp cá biệt của hắn.
Hắn khác Nguyễn
Văn Trỗi. Nguyễn Văn Trỗi
khóc lóc van xin trước tòa, và sau khi bị tòa lên án tử hình, Trỗi đã hô lớn " Hồ Chí Minh
muôn năm ". Hô xong lại khóc, lại van xin. Còn hắn, hắn nín thinh. Không khóc lóc, không van xin, không hô khẩu
hiệu..
Hắn khác Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hữu Thọ huênh
hoang và cao ngạo trước tòa. Hắn chịu đựng, nhẫn nhục, đến độ gần như khắc kỷ.
Tôi nghĩ đến con chó sói trong bài thơ " La Mort du Loup " của thi
hào Vigny.
Ba tháng đã trôi qua. Bức thư của tòa án Mặt
Trận mà trung sĩ Ân đưa cho tôi chiều hôm nay chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ đánh
máy: " Trân trọng báo để luật sư tường: đơn xin ân xá của Trần Văn Đang đã
bị bác. Ngày mai, hồi 5 giờ sáng, bản án tử hình sẽ được thi hành. Nếu luật sư
muốn hiện diện nơi hành quyết, thì xin có mặt tại khám Chí Hòa vào lúc 4 giờ
sáng. Trân trọng ".
Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ, đầu óc lởn
vởn khuôn mặt của hắn, và hình ảnh của hắn ngồi trong hành lang tòa án, một tay
để lên vai vợ, một tay sờ lên mình đứa con. Chưa đầy 3 giờ sáng, tôi đã thức
dậy, đi vào khám Chí Hòa.
Tôi bước vào phòng đợi, đã thấy một nhà sư gầy gò
mặc nâu sòng đang ngồi lần chuỗi hạt. Viên quản đốc nhà lao cho tôi biết: nhà
sư đã đến trước tôi cả nửa giờ. Lát sau, một linh mục béo tốt bước vào, trong
bộ quân phục thiếu tá tuyên úy. Bốn giờ ba mươi phút, ủy viên chính phủ đến.
Rồi đoàn người, gồm viên quản đốc nhà lao, ủy viên chính phủ, luật sư, và hai
vị tuyên úy, lặng lẽ đi vào một căn phòng rộng. Thường nhật, đây là chỗ điểm
danh tội nhân.
Hắn đã ngồi đó từ bao giờ, bên cạnh cái bọc quần áo.
Ánh sáng vàng bệch của ngọn đèn cáu bụi trên trần nhà phả xuống bốn bức tường
trắng xóa. Tôi chợt có ý nghĩ kỳ lạ là đang bước vào căn nhà xác của bệnh viện.
Đoàn người tiến lại gần hắn. Hắn đứng dậy, đôi mắt như dò hỏi. Một phút im
lặng, dài như một ngày.
Đại tá ủy viên chính phủ trịnh trọng nói với hắn:
" Anh hãy cam đảm lên, và nghe tôi đọc ". Rồi ông lớn tiếng đọc bản
án tử hình và bản quyết định bác đơn xin ân xá của hắn. Hắn cúi đầu nhìn xuống
sàn nhà, đôi mắt mở to. Người hắn run lên. Nhưng chỉ giây lát, hắn lấy lại bình
tĩnh. Hắn hỏi: " Bao giờ người ta xử tôi? ".. Viên quản đốc nhà lao
để tay lên vai hắn: " Ngay sáng hôm nay, trước khi mặt trời mọc ".
Rồi ông thân mật nói với hắn: " Bây giờ em muốn ăn uống gì không, khám
đường sẽ chu tất cho em ? ". Hắn lắc đầu.
Lúc đó, không ai bảo ai, mỗi người nói với hắn
một vài câu an ủi. Không khí trở nên thân mật và âu yếm như trong một cuộc tiễn
đưa. Riêng tôi chỉ nhìn hắn, tôi muốn nói chuyện riêng với hắn; đó là quyền của
tôi, quyền của luật sư biện hộ. Ủy viên chính phủ đồng ý, và cho tôi biết: tôi
có 5 phút. Rồi đoàn người bước ra khỏi phòng, để một mình tôi với hắn.
Người cuối cùng đã bước ra khỏi phòng. Hắn nắm lấy
tay tôi, và nhìn tôi rất lâu, đôi mắt ướt sũng. Tôi hỏi: " Em có muốn nói
nhắn với vợ em điều gì không? ". Hắn suy nghĩ giây lát, rồi nói: " Em bị chúng nó lừa. Luật sư có gặp vợ em, thì bảo đừng ở dưới vườn nữa, và nuôi lấy con ".. Tôi hỏi: " Em chết, có điều gì oán hận
không? ".
Hắn không trả lời. Tôi an ủi hắn: " Người ta,
ai cũng phải chết một lần, đời sau mới là quan hệ. Em theo đạo nào? ". Tôi
là người Công giáo. Tôi ước ao hắn dành một vài phút để nghĩ đến Thượng Đế và
tình thương bao la của Người. Nhưng ủy viên chính phủ đã bước vào nói nhỏ:
" Luật sư hết giờ rồi ".
Rồi ông thân mật hỏi hắn: " Ở đây có hai vị
tuyên úy em muốn nói chuyện với ai? ".. Hắn nhìn nhà sư mặc áo tu hành,
hắn nhìn vị linh mục mặc quân phục thiếu tá, rồi xin được nói chuyện với nhà
sư.
Tôi cúi đầu theo ủy viên chính phủ và vị linh mục đi
ra một góc phòng. Nhìn về phía hắn, tôi thấy nhà sư cúi đầu tụng kinh, và hắn
cũng cúi đầu như lắng tai nghe kinh. Khoảng khắc, nhà sư ngẩng đầu lên, đặt tay
lên vai hắn, trong một cử chỉ vỗ về bao dung. Lúc đó, đồng hồ trên tường chỉ
đúng 5 giờ sáng, giờ khởi hành. Người ta xúm lại chung quanh hắn, mỗi người nói
với hắn một câu chân tình. Hắn như chợt nhớ ra, xin phép được thay quần áo.
Một cảnh sát viên chạy lại cầm cái bọc quần áo
đưa cho hắn. Hắn mở bọc, lấy ra một chiếc sơ mi cụt mầu xám, và một chiếc quần
vải dragon đen đã bạc mầu. Khi hắn quay mặt vào tường để thay quần áo, tôi nhìn
thấy những lằn roi trên da thịt xanh xao của hắn. Thay xong quần áo, hắn xin
một điếu thuốc. Viên quản đốc nhà lao mỉm cười, rút trong túi ra một bao thuốc
lá Ách Chuồn. Ông ta trịnh trọng lấy ra một điếu, dộng dộng trên ngón tay cái,
rồi đưa cho hắn. Hắn ngậm điếu thuốc, và được viên quản đốc châm lửa. Lúc đó,
nhân viên an ninh đến. Hắn ngoan ngoãn đưa hai tay chụm ra đằng trước để người
ta còng. Rồi đoàn người lặng lẽ đi ra.
Hắn đi đầu, thản nhiên bước qua từng đợt cửa, thỉnh
thoảng dùng hai tay còng đưa điếu thuốc lên môi. Khi đoàn người ra tới sân nhà
lao, điếu thuốc gần lụi, và hắn buông rơi xuống đất. Hắn bước lên chiếc xe bít
bùng, đầu hơi cúi xuống. Cửa xe đóng sập lại. Tôi lên xe riêng, lái thật nhanh
ra khỏi nhà lao.
Chiếc xe của tôi lầm lũi đi trong đêm, ánh đèn
pha chiếu dài cả con đường Hòa Hưng, rồi đường Lê Văn Duyệt. Thành phố Sài Gòn
đang trở mình thức giấc, một vài gánh hàng đi nép bên lề đường. Và đó đây, có
tiếng động cơ quen thuộc của những chiếc xe Lam dậy sớm. Tới bùng binh chợ Bến
Thành, tôi đã thấy một đám đông bu quanh vùng ánh sáng của pháp trường cát.
Những phóng viên ngoại quốc chạy nhốn nháo, với máy
ảnh và máy quay phim. Cảnh sát chận xe tôi lại. Khi nhìn thấy chiếc áo đen của
tôi, họ dẹp đám đông cho xe tôi tiến vào. Tôi đỗ xe sát chân tường Nha Hỏa Xa,
cách pháp trường cát độ 30 thước. Những ngọn đèn pha cực mạnh đã được đặt tại
đó chiều hôm trước. Tất cả đều chiếu vào pháp trường cát, tạo nên một vùng ánh
sáng rợn người. Một chiếc cọc đen đứng cô đơn, đằng sau là những bao cát chất
thành vòng cung. Cách đó 3 thước, là chiếc quan tài đậy nắp, trên nắp có một
tấm vải trắng. Xa nữa là chiếc xe chữa lửa.
Tôi đứng trong vòng ánh sáng chưa được 10 phút
thì nghe tiếng còi hụ. Người ta chạy nhốn nháo. Tôi háy mắt nhìn về phía tiếng
còi hụ, thì thấy đoàn xe chở tội nhân đang tiến tới.
Chiếc xe bít bùng đỗ lại bên lề đường. Lát sau hắn
bước xuống khỏi xe. Tôi vội choàng lên người chiếc áo đen, chạy ra với hắn. Hắn
và tôi đi đầu, theo sau là đoàn áp giải. Hắn bước đều đều, mặt cúi xuống đất.
Dân chúng bu nghẹt chung quanh, chỉ chừa một lối đi được ngăn giữ bằng hàng rào
an ninh. Bây giờ chúng tôi đã bước vào vùng ánh sáng. Hắn bỗng ngửng đầu lên,
và đứng khựng lại. Người lính đằng sau lấy tay đẩy nhẹ vào lưng hắn, hắn lại
tiếp tục bước đi. Tôi đoán chiếc quan tài và chiếc khăn liệm đã làm hắn khựng
lại.
Hình ảnh trung thực của chiến tranh không được tìm
thấy ở chiến trường " da ngựa bọc thây ", mà được tìm thấy trong các
bệnh viện, nơi đó có những hình hài cụt chân cụt tay, những đống thịt bầy nhầy,
những hố mắt sâu thẳm, những cuốn băng bê bết máu, và những tiếng rên rỉ đau
đớn. Và hình ảnh trung thực của cái chết vẫn là chiếc quan tài, tấm khăn liệm
và những người thân yêu tiễn đưa.
Bây guờ, hắn và tôi đã bước vào trong vòng những bao
cát. Người ta mở còng, rồi giữ ghì lấy hai cánh tay hắn, đẩy hắn dựa lưng vào
chiếc cọc sắt. Hai cổ chân hắn bị cột chặt vào thân cọc, hai cánh tay hắn bị
kéo ngược ra đằng sau, cột ngược vào một cái cọc ngang. Chiếc cọc ngang này hơi
cao, hắn phải kiễng chân lên. Hắn nhăn mặt kêu đau.
Tôi nói với viên sĩ quan: " Đằng nào tội nhân
cũng sắp chết, ông nên cho hạ thấp chiếc cọc ngang xuống, kẻo máu bị ngừng ở
nơi nách, tội nghiệp ". Viên sĩ quan gật đầu, hạ thấp chiếc cọc ngang
xuống. Hắn nhìn tôi, và lần đầu tiên hắn nói: " Cám ơn luật sư ". Lúc
đó, đội hành quyết đã sắp hàng chỉnh tề, chỉ còn đợi sĩ quan Quân Trấn Trưởng
của Quân khu Sài Gòn đến là khởi sự. Một phút, hai phút, rồi ba phút... Cả pháp
trường im lặng, trong sự đợi chờ và trong ánh sáng chói chang.
Chỉ còn mình tôi đứng bên cạnh hắn. Hắn bỗng
trăn trối: " Em đã bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng ở dưới vườn, đừng nghe theo chúng nó và gắng nuôi con ". Tôi gật đầu.
Hắn nấc lên: " Con ơi, Cảnh ơi, Cảnh ơi ".
Tiếng nấc của hắn làm tôi mủi lòng. Tôi để tay lên vai hắn, định an ủi, nhưng
cổ họng bị tắc nghẽ. Tôi chợt nghĩ đến linh hồn hắn. Tôi thì thầm bên tai hắn:
" Em hãy ăn năn hối cải, và cầu xin Chúa giúp em chết lành. Em chết, nhớ
phù hộ cho vợ con em ". Hắn lại nấc lên: " Con ơi, con ơi, Cảnh ơi,
Cảnh ơi ". Lúc đó, có tiếng còi hụ. Quân Trấn Trưởng đến. Đội hành quyết
đứng nghiêm. Người ta bịt mắt hắn. Hắn vẫn nấc, vẫn gọi tên con. Có tiếng lên
đạn đàng sau lưng tôi.
Ủy viên chính phủ nói lớn: " Xin ông luật sư
đứng tránh xa ra một bên ". Tôi đi giật lùi ngang về phía bên trái, mắt
không rời hắn. Miệng hắn vẫn lắp bắp gọi tên con. Một tiếng hô. Một loạt đạn
nổ. Đầu hắn ngoẹo xuống, gục về bên trái. Máu từ trong người hắn chảy róc xuống
đùi, xuống chân, rồi bò ngoằn ngoèo trên lề đường. Viên đội trưởng hành quyết
tiến lại, nắm tóc kéo ngược đầu hắn về phía sau, dí khẩu súng lục vào màng tang
bên trái của hắn, bắn phát súng ân huệ. Một tiếng " đẹt " khô khan.
Người ta vội vàng liệm xác hắn, và chiếc vòi nước của chiếc xe chữa lửa vội vã
phụt sạch những vết máu trên lề đường. Phương Đông, chân trời đã bắt đầu hừng
đỏ.
Tối hôm đó, đài phát thanh Hà Nội mặc niệm hắn, hết lời ca tụng cái chết anh
hùng của hắn. Đài phát thanh Hà Nội nói rõ ràng: từ lúc bị trói vào cọc cho đến lúc bị hành
quyết, hắn đã noi gương anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, không ngớt đả đảo Mỹ Ngụy và
hô to khẩu hiệu " Hồ Chí Minh muôn năm ".
L.s Nguyễn Văn Chức
Chú
thích (của luật sư Nguyễn Văn Chức):
Dưới đây là những chi tiết liên quan đến vụ Trần Văn
Đang. Bị can sinh năm 1942 tại Vĩnh Long, bị bắt ngày 30 tháng 3 năm 1965 trong
khi đặt chất nổ, bị đem ra tòa án Mặt Trận hai tuần sau, và bị bắn tại pháp
trường cát bùng binh chợ Bến Thành sáng ngày 21 tháng 6 năm 1965.
Chánh thẩm
xử án là đại tá Phan Đình Thứ (tức Lam Sơn), linh mục tuyên úy Công giáo tên
Thông, nhà sư tuyên úy Phật giáo là đại đức Sĩ. Quân Trấn Trưởng là đại tá
Giám.
Nguyễn Văn
Trỗi bị bắt ngày 9 tháng 5 năm 1964, trong lúc đặt bom ở gầm cầu Công Lý, chờ
ám sát phái đoàn của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Mc Namara. Y bị toà án Vùng 3
Chiến Thuật xử tử hình. Trước toà, y khóc lóc, chửi bọn xúi y đi ôm bom là bọn
" chó đẻ ", và xin toà tha tội. Khi toà tuyên án tử hình, y hô to Hồ Chí Minh
muôn năm. Hô xong y lại khóc và xin toà tha.
Năm 1993,
tôi (luật sư Nguyễn Văn Chức) có đọc cuốn "Chung
Một Bóng Cờ" do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia (Hà Nội) ấn hành,
gồm những bài viết của Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Văn Đồng... Cuốn
sách đã dành một trang để nói về cái chết của Anh Hùng Trần Văn Đang.
Xin trích một vài dòng cuối: " Sáng
ngày 21 tháng 6 năm 1965 lúc 5 giờ 52 phút, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đem anh
ra xử bắn tại pháp trường cát, với hy vọng có thể khủng bố được tinh thần nhân
dân Sài Gòn. Nhưng chúng đã lầm. Trước đông đảo đồng bào và phóng viên trong và
ngoài nước đang tụ tập dọc đường Hàm Nghi và chợ Bến Thành, vừa bước xuống xe,
Trần Văn Đang dõng dạc nói lớn: Hỡi đồng bào chợ Bến Thành, hỡi đồng bào Sài
Gòn thân yêu, tôi là Trần Văn Đang đây, chiến sĩ giải phóng, tôi đánh Mỹ để
giải phóng dân tộc... Đả đảo đế quốc Mỹ... đả đảo tập đoàn tay sai bán nước.
Ngay sau khi súng đã nổ, anh vẫn không ngừng hô to Hồ chủ tịch muôn năm, đả đảo
đế quốc Mỹ " (trích trong Chung Một Bóng Cờ, trang 886-887).
Người chuyển
bài – HHM - USA
No comments:
Post a Comment