Người mẹ thứ
Ngôi
nhà An Cựu của mẹ nằm giữa một thửa đất rộng gần chân núi Ngự
Bình. Hàng rào chung quanh là những cây chè mọc hoang đan vào các bụi
cẩn (hoa dâm bụt) với những đóa hoa giống như cái lọng màu đỏ và
chen lẫn với các bụi ngũ sắc với những bông hoa nhỏ nhiều màu sắc
và trái tròn nhỏ xíu dính với nhau thành chùm. Vườn tược trống
trải, mẹ dự định trồng cây ăn trái ở phía trước và lập vườn rau ở
phía sau để thu hoạch hoa màu làm lợi tức gia đình.
Không
tới một tuần mà anh Quang đã tụ tập chơi đùa với bọn trẻ con cùng
trang lứa trong xóm. Trong lúc anh được phục lăn và tôn làm đầu nêu
bày trò chơi, tôi bị chê là ngu ngơ khờ khạo. Bọn này hái trái ngũ sắc
chín màu đen dụ tôi ăn; tôi ăn vào nhả phụt ra ngay vì không ngon lành
gì cả (dì Cúc chê “chim cũng không thèm ăn trái nớ”)
và bị trêu chọc vì gọi cây hoa bằng cái tên ở ngoài làng,
“Lêu
lêu, bông ngũ sắc mà kêu là bông gia tô. Quê òm (quê quá
chừng)!”.
Buổi
sáng, anh dẫn tôi chạy lên núi để luyện phi hành, tức là lướt đi như
bay như các hiệp sĩ trong truyện võ thuật hay kiếm hiệp. Chạy lên núi
đã khó – mệt và mỏi chân, nhưng chạy xuống lại càng khó hơn – giữ
sao cho đừng đổ dốc ngã chúi dập mặt. Anh nói khi đạt đến mức
thượng thừa, mỗi ngày hiệp
khách có thể đi ngàn dặm như không.
Buổi
chiều, hai anh em luyện phi thân tức là nhảy vọt lên. “Sách” dạy
khi đầy đủ công phu chỉ cần nhún chân một cái là nhảy qua tường cao
hay bay lên nóc nhà. Ở góc vườn sau không ai nhìn thấy, anh đào một
cái hố đường kính chừng một thước và ban đầu sâu chừng ba tấc. Đứng
dưới hố, không cong chân (ở đầu gối), và ráng nhảy lên mặt đất. Sau
khi “thành công” ở độ sâu này, lại đào sâu hơn, và cứ thế mà tiếp
tục.
Thỉnh
thoảng chúng tôi lên hai hòn núi nằm hai bên núi Ngự Bình, Tả Phù và
Hữu Bật. Tôi lượm thạch anh và đá lửa ở chân núi đem về trữ
trong “kho tàng bí mật” chôn giấu sau hè nhà. Anh Quang dẫn “quân” lên
hòn Hữu Bật tập diễn màn vua Quang Trung lập đàn tế cáo trời đất và lên
ngôi hoàng đế trước khi tiến quân ra Bắc đánh quân Thanh.
Khi
vở kịch hoàn tất, anh nghiêm giọng hô lớn,
“Quân
ba… a… ay!”.
“Dạ…
ạ… ạ”, bon trẻ dạ rân lên.
“Cầm
cu cho tau đá… ái… ái”, anh cười kha khả.
Bọn
“lâu la”rú lên cười hãnh diện và cùng nhau vỗ tay hát,
Hai
vợ chồng,
Hông
vợ chài.
Đổ
bánh khoái.
Hái
rau răm.
Nằm
với nhau.
Địt
cái tôộng!
Anh
tôi nghe không thuận tai, dạy các bạn hát bài đồng dao Quảng Bình về
vợ chồng,
… O một mình, không đặng
Tui một mình, không đặng
Gió ngoài biển dồn vô
Mây trên trời cuốn lại
O với tui cũng cuốn lại …
Những
trò chơi loang toàng của chúng tôi không qua nổi đôi mắt dì Cúc,
nhưng dì không la mắng mà còn giúp đỡ và che chở khi cha hỏi tới. Cha
thường ngủ đêm trong đồn dưới Truồi ít khi về nhà nên chúng tôi ít
gặp và không lo bị “ăn da bò”.
Giúp
mẹ lo việc nhà cửa và săn sóc bốn anh em tôi (mẹ vừa có thêm thằng
Triết), dì được mẹ tin cậy. Anh Quang không ưa dì nhưng chỉ dám lén
uốn éo đóng trò bắt chước dì nói giọng Huế,
“Eng
ăng noái chi mà lạ rứa, mầng người ta dị bấc chết mà nõ biết ôốc
dôộc!” (“Anh ăn nói gì mà lạ vậy, làm người ta thẹn muốn chết
mà không biết xấu hổ!”).
Một
hôm, tôi thấy đứng chơ vơ bên đường lên núi một cây hoa quỳ cao chừng
hai thước với những cánh hoa màu vàng rực rỡ chung quanh đài hoa. Đóa
hoa đẹp quá, tôi bẻ cả cây đem về đưa mẹ xem. Mẹ vốn không ưa cây dại
ngoài đồng,
“Quăng
đi, đem về làm chi cho nhớp (dơ) nhà?”.
Tôi
mang hoa tặng dì Cúc. Dì cảm động, lấy chai bia không đổ nước vào
cắm hoa để trên đầu giường, và giải thích,
“Cây
ni còn kêu là bông hướng dương có gốc ở bên Châu Mỹ.
Những cọng bông nhỏ lấm tấm trong đài hoa lớn lên thành hột ăn ngon
lắm”.
“Dì
ăn thử chưa?”, tôi tò mò.
“Nghe
rứa chớ có mô mà ăn”, dì xoa đầu tôi cười rúc rích.
Mỗi
chiều thứ Năm, dì xin phép mẹ đưa tôi đi xem hát bội ớ trường hát Ba
Tuần (tức là rạp Đồng Xuân Lâu) ở Ngã Giữa (hay đường Gia Long). Xem hát
xong, dì ghé quán Bà Cửu Ới mua cho mẹ gói thuốc Cẩm Lệ, tiệm Hồng
Thuận lấy cho anh Quang và thằng Sáng gói mè xửng hoặc hộp kẹo gương,
và chợ Đông Ba tìm cho thằng Triết món quà nhỏ như cái lục lạc hay
con chim bằng vải treo trên nóc nôi. Chú “thợ ăn” thì no nê với quà
bánh xực liên tục từ khi tới rạp hát cho đến lúc ra về.
Dì
thích nhất tuồng “Quan Vân Trường Phò Nhị Tẩu” diễn tích Quan Vũ
hộ tống hai bà chị dâu, vợ người anh kết nghĩa là Lưu Bị, trên đường
lưu lạc. “Con mọt sách” đã thuộc lòng các truyện Tàu mà tựa đề mang
thêm hai chữ “Diễn Nghĩa”như Phong Thần, Tam Quốc Chí, Tây
Du Ký, v.v. và hăng hái kể lại cho dì nghe những sự tích trong
truyện. Tôi khám phá ra một điều không ai biết: dì có khả năng nhận
thức lẹ và nhớ dai lạ lùng, như nghe đọc tên thuốc hay địa danh bằng
tiếng Pháp một lần là nhớ mãi và lặp lại đúng giọng, nhưng lại
không biết đọc hay biết viết.
Biết
tôi ham đọc truyện, dì kiếm về cho tôi nhiều sách cũ, phần lớn mất
cả bìa trước lẫn bìa sau nhưng trang đầu ghi lời yêu cầu của chủ
nhân,
Chơi
hoa chớ để hoa tàn,
Xem
sách chớ để sách tan nát bìa.
Tôi
học cách cắt giấy cứng làm bìa, dùng đinh đục lỗ, và dùng kềm cắt
dây kẽm làm kim đóng sách để đóng sách lại và cất giữ. Nhờ vậy,
tôi có cả thư viện truyện tình cảm xã hội như Bên Dòng Sông Trẹm
của Dương Hà, truyện trinh thám như Con Tàu Máu và Chiếc
Thuyền Ma của Phi Long, truyện võ thuật như Hỏa Thiêu Thiếu Lâm
Tự và Thần Long Đại hiệp, v.v.
Truyện
trinh thám và võ thuật không hiểu sao thường bị bỏ dở nửa chừng và
không có kết cuộc. Nhưng không hề gì, dì Cúc giúp tôi dệt thêm
phần cuối, thêm mắm thêm muối cho đến khi thấy câu chuyện kết thúc
vừa ý – người hiền gặp lành, và kẻ ác đền tội. Với phương pháp
“viết truyện miệng”, dì là cô giáo Việt văn đầu tiên và giỏi nhất
trong đời tôi.
Dì
hay kể lể tâm sự với tôi mà không sợ bị tiết lộ sang người thứ ba
vì thằng Bé không có ai để kể lại, mà có kể cũng chẳng ai
thèm nghe. Dì là dân Huế chính cống, sinh ra và lớn lên ở vùng
Đông
Ba Gia Hội hai cầu,
Ngó
về Diệu Đế bốn lầu hai chuông.
Chùa
Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Gia Hội (hay còn gọi là sông Đông Ba).
Mồ
côi cha từ thuở bé, dì theo mẹ vào Lăng Cô mở quán tạp hóa rồi gặp
cha và thương tài “ông quan một” lớn hơn dì tám tuổi. Cha thành
thực cho biết đã có vợ và ba đứa con ở ngoài làng và ngỏ ý muốn
hỏi cưới dì làm vợ hai đúng lúc bà mẹ lâm bịnh nặng sợ không qua
khỏi. Bà giục dì, lúc ấy mười chín tuổi, nhận lời cầu hôn để
có nơi nương tựa sau khi bà ra đi.
Đám
cưới chạy tang được tố chức đơn giản với sự chứng kiến của các bạn
đồng ngũ của cha. Sau khi mẹ mất, dì bán nhà cửa và giao hết tiền
bạc cho cha. Từ đó, dì coi mình là một phần gia đình cha và nguyện
phục tòng và giúp mẹ nuôi nấng các con. Dì mong ước một điều,
“Răng
ông Trời cho dì đẻ đứa con gái. Có công chúa đứng giữa tứ hổ
tướng là bốn anh em bây là nhà mình có phước nhứt hạng”.
Nhân
thu xếp các món đồ trong rương, dì hãnh diện lấy cho tôi xem tờ “giấy
giá thú” cha làm lúc cưới dì,
“Cha
nộp giấy ni trong đồn, ăn lương dì là vợ thứ cùng với mẹ là
vợ chánh và mấy đứa bây là con”.
Đó
là tờ “Giấy Sống Chung” đánh máy trên giấy trơn không có tiêu đề, đại
khái cho biết cha và dì thỏa thuận sống chung với nhau; cha ký tên bên
dưới và dì điểm chỉ một bên. Tôi đọc đi đọc lại mà không thấy
chữ “giá thú,” “chồng,” hay “vợ thứ” đâu cả. Dì ngạc nhiên,
“Răng
con đọc lâu rứa, có chi lạ không?”.
“Dạ
không, có mấy chữ khó mà con không hiểu”, tôi ngập ngừng và thấy mắt
cay cay.
Vậy
mà lâu nay tôi cứ ngỡ dì thực sự là thứ mẫu – mẹ thứ – của anh em
tôi.
Tội
nghiệp dì quá đi thôi!
Ngày 18 tháng Mười Một, 2013
Nguyễn Ngọc Hoa
304Đen - llttm
No comments:
Post a Comment