Người
Lính Lẫm Liệt giữa Tháng Tư hung hãn!
Kính tiễn biệt Thiếu Tướng Lê
Minh Đảo
Để nhớ ngày “Anh Tư Về Trời”
Bỏ lại cuộc chiến dang dỡ không
thành
Nơi Quê Nhà Việt Nam.
(30/4/1975-19/3/2020)
I. Giữa vũng lầy chính trị
Trong những ngày đầu tháng 4, 1975, Cựu Bộ Trưởng
Thông Tin Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã nay giữ chức vụ cố vấn riêng của Tổng Thống
Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã có mặt tại Singapore theo lời mời của Thủ
Tướng Lý Quang Diệu.
Cá nhân cố vấn Nhã rất ái mộ nhà lãnh đạo họ Lý,
bởi vị này đã thành công trong quá trình cai trị (dẫu bị phê phán là độc tài,
độc đảng theo thói tục của chính giới Tây Phương) bằng việc thực hiện cho người
dân Singapore những điều mà chế độ cộng sản hứa hẹn “sẽ có nơi địa đàng trần
thế”: Tự do, dân chủ, việc làm, phồn thịnh kinh tế, ổn định xã hội.
Mức sống người dân Singapore được xếp hạng cao nhất
Châu Á. Môi trường, thành phố, phi cảng Singapore được đánh giá là những địa
điểm công cộng sạch nhất thế giới. Tháp Đôi ở thủ đô này có chiều cao nhất hơn
hẳn toàn nhà Empire State Building hay Twin Tower của New York.
Thủ Tướng Diệu không mời Cố Vấn Nhã đến do liên lạc
bình thường giữa những chính khách, ông mời ông Nhã đến để trao gởi một “nguồn
tin” quan trọng. Thủ Tướng Lý vào thẳng vấn đề: “Đừng để mất thì giờ vô ích,
tôi mời ông tới đây bởi kết thúc (ở Việt Nam) sắp xảy đến. Rockefeller vừa hỏi
ý kiến tôi cũng như những vị lãnh đạo Á Châu khác, liệu chúng ta có cách gì để
đưa ông Thiệu ra đi hay không.”
Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các nước
Đông Nam Á của Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang người lãnh
đạo cuối cùng của thế hệ Thế Chiến thứ Hai, Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua
(5 tháng 4) là để thông báo điều: “Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người cầm
quyền ở Nam Việt Nam.”
Thủ Tướng Lý không nói thêm điều gì khác – việc
“ai” sẽ thay thế ông Thiệu là vấn đề của Sài Gòn với những người như Đại Tướng
Minh, Khiêm, hoặc Cựu Phó Tổng Thống Kỳ. Ông chỉ thúc dục cố vấn Nhã: “Hãy khẩn
báo cho ông anh của ông như thế mà thôi. Riêng ông nên ở lại đây. Đừng về lại
Sài Gòn, tôi sẽ lo liệu cho gia đình ông ra khỏi nước. Người Mỹ cũng đã xếp đặt
sẵn một nơi cho ông Thiệu lưu trú.”
Không biết cuộc mạn đàm đã được thâu băng, cũng như
nơi Dinh Độc Lập máy ghi âm mật (do văn phòng CIA Sàigòn gài) luôn hoạt động,
Nhã thông báo liền cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng mấy phấn khởi này; một
phần ông cố vấn cũng đã hiểu ra thực tế: “Giới quân nhân, những tư lệnh chiến
trường đã không còn tin tưởng nơi ông tổng thống vốn xuất thân từ quân đội này
nữa.” Cuộc rút bỏ Tây Nguyên sau ngày 10 tháng Ba (ngày quân đội Bắc Việt tổng
tấn công Ban Mê Thuộc), tiếp theo lần di tản Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang
(cuối tháng 3) với thảm cảnh kinh hoàng của dân và lính vượt khỏi tất cả những
dự kiến; làm tan vỡ sức chiến đấu, phá hũy quân trang cụ, vũ khí của hai Quân
Khu I và II đã bày ra điều cùng cực phi lý và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn
Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa không nắm vững chính trị lẫn quân sự của
tình thế. Chỉ riêng về mặt quân sự không thôi ông cũng đã là một người chỉ huy
mất khả năng kiểm soát chiến lược lẫn chiến thuật mà một nhà lãnh đạo cần phải
có.
Nghĩ cho cùng cũng chẳng phải riêng của Tổng Thống
Thiệu với tình thế VN. Lời thông báo của Phó Tổng Thống Rockefeller cũng không
là ý kiến riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh thực tế về
quyết định của chính giới Mỹ đối với tình thế chung cho toàn vùng Đông Nam Á.
Ngày 12 tháng 4 Nam Vang thất thủ, người lãnh đạo Sirik Matak cùng tất cả bộ
trưởng của chính phủ Long Boret (chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị
của tòa Đại Sứ Mỹ) là những nạn nhân đầu tiên của cách hành hình man rợ hơn cả
thời trung cổ do đám đao phủ Kmer Đỏ hành quyết.
Họ không chết do bất ngờ, vì không lường được tính
ác ghê rợn của lực lượng cộng sản Khmer mà hơn ai hết, vị cố vấn chính trị của
tổng thống Campuchia đã có lá thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Dean John của Hoa
Kỳ với lời lẽ khẳng quyết bi tráng như sau: “Kính gởi Ngài Đại Sứ và các Bạn…
Tôi chân thành cảm ơn lá thư ngài chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện
đi đến vùng tự do. Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế
được. Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có được
nhiều điều hạnh phúc dưới cõi trời này. Nếu tôi có phải chết thì cũng chết trên
đất nước mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai
chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm một lỗi lầm là đã tin vào ngài và
tin vào những người Bạn Mỹ.”
Lời báo động của người thân cận Hoàng Đức Nhã cùng
tình thế bi thảm của Campuchia, lẫn thực tế tuyệt vọng của miền Nam khi phòng
tuyến Phan Rang (mà cũng không bao giờ đã là một tuyến phòng thủ vững chắc được
bởi đấy là một vùng đất có thể tiếp cận đến bởi bất cứ hướng tiến quân nào, kể
cả hình thái bao vây, chia cắt) bị tan vỡ buộc Tổng Thống Thiệu phải hiểu ra
rằng: Những lá thư bảo đảm của Tổng Thống Nixon với những lời trịnh trọng “Tự
do và độc lập của Việt Nam Cộng Hòa luôn là mục tiêu tối thượng của chính sách
đối ngoại của nước Mỹ. Tôi hằng dốc sức thực hiện mục tiêu ấy suốt cuộc đời
chính trị của bản thân” đã không còn mảy may có giá trị, vì người viết như
giòng chữ (cho là thực tâm kia) đã đi ra khỏi Tòa Bạch Ốc với tình cảnh của kẻ
“phạm tội” sau vụ Watergate (9/8/1974).
Người thay thế ông, tổng thống không do dân cử,
Gerald Ford lại bị trói buộc toàn diện bởi Nghị Quyết Sử Dụng Vũ Lực Chiến
Tranh đã được quốc hội phê chuẩn từ tháng 11, 1973, cho dù Tổng Thống Nixon đã
dùng quyền phủ quyết bác bỏ. Nghị quyết này thật sự là phần hiện thực hiến định
của đạo luật cắt bỏ quỹ “Hoạt Động Tác Chiến” do Tu Chính Án Cooper-Church đệ
trình Thượng Viện Mỹ nhằm hạn chế quyền lực sử dụng quân đội Mỹ ở Đông Dương từ
1970 – Tất cả điều khoản, đạo luật này đã được lưỡng viện Quốc Hội Mỹ phê chuẩn
thi hành sau khi ký Hiệp Định Paris (27 tháng 1, 1973) và Thông Cáo Chung của
Kissinger cùng Lê Đức Thọ, ngày 13 tháng 7 cùng năm để “thúc đẩy các bên ký kết
thi hành hiệp định “Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam (sic).”
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không để
thân phận mình kết thúc tan thương oan khốc như tình cảnh của Cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, cũng không muốn “hiển thánh vị quốc vong thân” trước nòng súng của
binh đội cộng sản. Ông dư biết “những kẻ thù chính trị sẽ không để cho
ông yên thân; ông lại càng ngao ngán tình đời vì Cựu Phó Tổng Thống Kỳ đã xuất
hiện lại với một khẩu P38 cặp kè bên hông hiện thực lời răn đe “phải làm một
cái gì… và Sài gòn sẽ là một Stalingrad” như trong lần nói chuyện ở Trường Chỉ
Huy Tham Mưu tại căn cứ Long Bình.
Nhưng cốt yếu đối với người “bạn Mỹ,” người bạn mà
vị chính khách Campuchia Sirik Matak bên nước láng giềng kia đã phẫn uất kêu
lên lời tán thán – Ông Nguyễn Văn Thiệu phải ra tay trước – Vất bỏ gánh nặng mà
ông cho là “vô lý” với luận cứ: “Người Mỹ đòi hỏi chúng ta làm một việc bất khả
thể. Tôi đã từng nói với họ: Các ông đòi chúng tôi làm một việc mà các ông
không làm nỗi với nửa triệu quân hùng mạnh, với những viên chỉ huy tài giỏi, và
tiêu hơn 300 tỷ (Mỹ kim) trong hơn sáu năm. Rồi bây giờ tương tự như các ông
chỉ cho tôi 3 đồng, bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất, thuê phòng khách sạn 30
đồng một ngày, ăn bốn, năm miếng bíp-tếch, uống bảy, tám ly rượu vang mỗi ngày.
Đấy là một chuyện hết sứ vô lý.”
Sau khi so sánh cuộc chiến đấu của một dân tộc với
cách thức đi ăn tiệc với giá biểu “kỳ cục” kể trên, ông cao giọng tố cáo người
bạn quý không e dè: “…các ông để mặc chiến sĩ chúng tôi chết dưới mưa đạn pháo.
Đấy là một hành động bất nhân của một đồng minh nhân.” Ông chát chúa lập lại:
“Từ chối giúp một đồng minh và bỏ mặc họ là một hành vi bất nhân.”
Những giới chức cao cấp của Tòa Đại Sứ Mỹ ở đường
Thống Nhất (đối diện với Dinh Độc Lập, nơi ông tổng thống đang nói cho buổi
truyền hình trực tiếp) theo dõi đủ nội dung của bài nói chuyện với những lời lẻ
nặng nề như trên (bài nói chuyện của một người đang cơn nóng giận chứ không
phải ngôn ngữ ngoại giao của một vị nguyên thủ quốc gia, một chính khách lãnh
đạo). Tuy nhiên, người Mỹ luôn là một người “bạn tốt.” Họ đã chuẩn bị cho ông
một nơi an toàn và cách ra đi kín đáo (cũng không thể kín đáo hơn), thích hợp
với “danh dự của một vị nguyên thủ” vì dù gì ông đã giúp họ cởi bỏ gánh nặng
chiến tranh qua lần rút quân có tính “danh dự” khỏi Việt Nam theo điều khoản
của Hiệp Định Paris.
Tuy nhiên, cuối cùng lời của Ông Nguyễn Văn Thiệu
có phần chính xác như câu nói bất hủ: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy
nhìn những gì cộng sản làm” vì quả thật pháo đang rơi xuống, đang trút xuống
như mưa lũ trên đầu người lính… cũng trên đầu người dân. Đạn pháo, hỏa tiễn của
binh đoàn quân cộng sản Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội
xuống như mưa lũ ở Long Khánh- Cửa ngỏ phía đông- bắc dẫn vào Sài Gòn – nơi bản
doanh Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh – Vị
tướng lãnh thăng cấp cuối cùng của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch
sử: Người Lính nào đã quyết tâm chiến đấu thực hiện nghĩa vụ Bảo Quân An Dân
nơi Miền Nam. Và sự sụp vỡ ngày 30 tháng Tư, 1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra
từ nòng súng chiến đấu của họ- Quân Lực Cộng Hòa.
II. Mặt đối mặt qua bãi lửa
Bình nguyên Tỉnh Long Khánh trãi rộng trên vùng
rừng miền đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, trước đây vốn là Quận Xuân Lộc
thuộc Tỉnh Biên Hòa. Năm 1955 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thành hình những đơn
vị hành chánh mới, Xuân Lộc tách ra thành một tỉnh riêng với thủ phủ là vị trí
của quận đường cũ nay được mang thêm danh xưng là Quận Châu Thành Tỉnh Long
Khánh. Long Khánh nằm trên ngã Ba của Quốc Lộ 20 (đi Đà Lạt) và Quốc Lộ I, lối
ra Trung, đường đi Hàm Tân, Phan Thiết.
Sau thành công đánh chiếm Tây Nguyên (Vùng II) và
Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội Miền Nam (mà thật sự chỉ
do quyết định toàn quyền, độc nhất của Tổng Thống NguyễnVăn Thiệu), phía cộng
sản rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 (thất bại
do phân tán lực lượng trên nhiều mục tiêu, lẫn lộn giữa “điểm-mặt trận chính”
và “diện- mục tiêu phụ”).
Chiến dịch năm nay, 1975, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội
Miền Bắc quyết tâm tiêu diệt Miền Nam qua chiến thuật tập kích tấn công từ một
điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng
nhất tiến về Sài Gòn – Mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh
“giải phóng ngụy danh.”
Trung Ương Đảng ra lệnh cho Trung Ương Cục Miền Nam
cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam.
“Xung phong tiến lên tấn công Sài Gòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không
còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười-lăm sư đoàn,
chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá
nào: Đấy là quan điểm của Trung Ương Đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc,
các đồng chí ở Bộ Chính Trị đã nói rằng: ‘Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng
chí chỉ trở về với chiến thắng’.”
Chiến dịch Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện
37/TK do chính Lê Đức Thọ, Chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực
lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam- Mười lăm sư đoàn quân chính quy cộng
sản Bắc Việt. Những danh xưng này cần phải viết đủ để trả lời cho những quan
điểm chiến lược vạch nên từ Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, được phổ biến khắp hệ
thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: “Chiến tranh Việt
Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam” nổi dậy
lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa); nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng
thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì “98% của vấn
đề (chiến tranh) là ở Miền Nam, chứ không là Miền Bắc.”
Bởi quan niệm như thế kia, nên sau lần ký Hiệp Định
Paris hai năm, ba tháng, tình hình quân sự hóa nên tồi tệ như một điều tất yếu,
và chắc rằng Lê Đức Thọ được chọn lựa giữ nhiệm vụ chính ủy cho chiến dịch đánh
chiếm không phải do tình cờ, vô cớ – bởi đấy là kẻ được thế giới trao tặng giải
Nobel Hòa Bình do đã thiết lập cùng Ngoại Trưởng Kissinger cái gọi là hiệp định
“tái lập hòa bình tại Việt Nam” kia. Chúng tôi không đủ nhẫn tâm, trâng tráo để
viết hoa nên nhóm danh tự này- Vì nếu thế sẽ được đánh giá là “đã tham gia vào
một quá trình lừa lọc – Quá trình đùa cợt và khinh miệt nỗi khổ đau của toàn
Dân Tộc Việt” – Khối dân bi thương luôn cầu mong dược sống một ngày bình an qua
gần nửa thế kỷ sống trong lửa.
Chúng ta trở lại chiến trường với Tướng Quân Lê
Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long
Khánh, ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18 đã phải đối phó với tình trạng
căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để
chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng Tướng Đảo
chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy
mô cấp sư đoàn. Đầu tháng Ba 75, Trung Đoàn 48 lại tăng phái cho Sư Đoàn 25
trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây Sài Gòn cũng chung Vùng III Chiến Thuật
với Sư Đoàn 18.
Thế nên khi trận chiến bắt đầu 9 tháng 4, 1975 ông
chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ) gồm những đơn vị: – Chiến đoàn 43 do Đại Tá
Lê Xuân Hiếu chỉ huy gồm trung đoàn 43 (trừ Tiểu Đoàn 2/43 đóng giữ các cao
điểm quan trọng) gồm Tiểu Đoàn 2/52 (cơ hữu của Trung Đoàn 52); Tiểu đoàn 82
Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Phải nói qua đơn vị kỳ
lạ này với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu Đoàn 82 vốn thuộc Quân Khu II
Tây Nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuộc bị vỡ, Thiếu Tá Long vừa đánh vừa rút lui
xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuộc, Long đưa đơn vị vượt Cao Nguyên Di-Linh băng
rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc Lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục
băng rừng theo hướng tây-nam về Long Khánh.
Ngày 6 tháng 4 (gần một tháng sau trận Ban Mê
Thuộc, ngày 10 tháng 3), Tướng Đảo nhận được một công điện khẩn từ các toán
tiền đồn. Một đơn vị lạ với y phục Biệt Động Quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng
với Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III (Biên Hòa), Tướng Đảo dùng trực
thăng bốc toán quân của Thiếu Tá Long- một tiểu đoàn biệt động chỉ còn khoảng
200 người. Lực lượng Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi Xuân Lộc hợp
cùng các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm chỉ huy trưởng.
Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm Trung Đoàn 52 (trừ Tiểu Đoàn 2/52 tăng
phái như kể trên) và các đơn vị trinh sát, thiết giáp, pháo binh thống thuộc
hành quân. Đơn vị này trấn giữ dọc Quốc Lộ 20 (Bắc-Tây Bắc Long Khánh) từ Kiệm
Tân (cứ điểm chận đường từ Đà Lạt xuống) đến Ngã Ba Dầu Giây (giao điểm của hai
Quốc Lộ I và 20), nút chận về Biên Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư
Đoàn 3 Không Quân, thị xã cách Sài Gòn 30 cây số về hướng Bắc.
Trước khi trận chiến bùng nỗ lớn, Thiếu Tướng Đảo
khẩn thiết yêu cầu viên tư lệnh quân đoàn, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả
lại Trung Đoàn 48; khi nhận được trung đoàn này về, Tướng Đảo sử dụng đơn vị để
trấn giữ mặt đông thị xã – đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai, mặt bắc
của Ngã Ba Ông Đồn đường đi vào Quận Tánh Linh, Tỉnh Bình Tuy, trung tâm của
mật khu Rừng Lá mà từ đầu khởi cuộc chiến (1960) đã là một vùng bất khả
xâm phạm do đấy là hành lang chuyển quân từ đồng bằng, vùng biển (Vùng III của
VNCH) lên miền Tây Nguyên.
Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả
thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình
thế khẩn cấp của tháng 4, 1975. Trước 1972, vùng này được tăng cường một lữ
đoàn thuộc lực lượng Hoàng Gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ Đoàn 11 Chiến Xa do Đại Tá
Patton chỉ huy (con của Danh Tướng Patton của lực lượng thiết kỵ Hoa Kỳ trong
Đệ Nhị Thế Chiến) cùng những đơn vị bộ binh, nhảy dù Mỹ; chưa kể đến Sư Đoàn
Mãng Xà Vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc Lộ 15,
đường đi VũngTàu.
Sư đoàn lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư
Đoàn 3 Bộ Binh của Vùng I), nhưng những người lính cơ hữu cùng các đơn vị diện
địa, tăng phái đã lập nên kỳ tích tưởng không thực vào trong lúc toàn bộ quân
lực, đất nước thậm khẩn cấp nguy nan, những đại đơn vị đã vỡ tan vì cách điều
quân “di tản chiến thuật” quái đản phát xuất từ Dinh Độc Lập. Thành lập từ năm
1965, đầu tiên đơn vị có danh hiệu là “Sư Đoàn 10 Bộ Binh,” và quả như số hiệu
không mấy may mắn này báo trước, theo báo cáo lượng giá hằng tháng SAME (System
Advisor Monthly Estimation) của giới chức cố vấn Mỹ cao cấp trong năm 1967, sư
đoàn bị xếp hạng là một trong những đại đơn vị yếu nhất của quân lực. Tính đến
năm 1972, hiệu kỳ sư đoàn chỉ nhận một lần tuyên công.
Nhưng tất cả điều này đã thuộc về quá khứ, năm 1974
đơn vị trở nên thành đơn vị xuất sắc nhất mang giây Biểu Chương Quân Công Bội
Tinh (11) Bởi một điều đơn giản nhưng vô cùng thiết yếu đã được thực hiện:
Tướng Quân Lê Minh Đảo về nắm quyền chỉ huy đơn vị từ sau trận chiến Mùa Hè
1972, và ông đã dựng nên sự biến đổi thần kỳ kia với bản lãnh thực sự của một
“võ tướng”: Sống-Chết cùng Binh Sĩ-Đơn Vị. Phải, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không
có gì ngoài những người lính gian khổ dưới quyền, những viên sĩ quan cấp úy
trung đội trưởng, với quân số còn lại đúng “mười-hai người” chờ đợi để chết
trước lần một biển người, chiến xa, đại pháo dập tới. Nếu có một người (chỉ một
người thôi) để ông có thể trao lòng tin cậy cùng là một vị tướng nổi danh liêm
khiết – Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III- Nhưng oan
nghiệt và uất hận thay, trong giờ phút sôi lửa kia, vị tướng trung chính ấy đã
chết vì một viên đạn bức tử tại văn phòng do “sẩy tay, lạc đạn khi chùi súng?!”
Quả thật, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không còn ai, không có ai ngoài tập thể những
Người Lính đang quyết lòng giữ chắc tay súng – nhiệm vụ mà họ xả thân tận hiến
từ một thuở rất lâu không hề nói nên lời. Trận thử sức cuối cùng, tháng 4, 1975
tại Xuân Lộc, Long khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử.
Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang
phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác.
Đối mặt binh đội của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV cộng sản BắcViệt do Trung Tướng
Hoàng Cầm chỉ huy. Một quân đoàn vừa thành hình trong ngày 20 tháng 7, 1974
theo sách lược chung của cộng sản Hà Nội – Toàn phần vất bỏ Hiệp Định Paris,
quyết thanh toán Miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của
chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn công Thị Xã Phước Long thuộc tỉnh Phước Bình
(Đông-Bắc Sài Gòn, 12 tháng 12, 1974). Sau lần toàn phần chiếm đóng Phước Long
(6 tháng 1, 1975) mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, cũng tương tự như phản ứng
thụ động của Hạm Đội 7 Mỹ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Trường Sa, tấn
công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam, Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Hà Nội
quyết định thanh toán Miền Nam bằng súng đạn, điển hình qua câu nói khoái trá
của Phạm Văn Đồng trong buổi hội đầu năm 1975: “Cho kẹo Mỹ cũng vào lại Việt
Nam.”
Hoàng Cầm chủ nhân của loại bếp ém khói, là tiểu
đoàn trưởng của lực lượng tấn công vào trung tâm phòng thủ Điện Biên Phủ năm
1954; khi chiến tranh khởi cuộc (1960), Hoàng Cầm giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 312,
chuyển vào Nam năm 1965 để chỉ huy Sư Đoàn 9 khi đơn vị này mới thành lập; Mậu
Thân 1968, Cầm phụ trách tham mưu của Trung Ương Cục Miền Nam; Tổng Công Kích
1972, tiếp lên chức tham mưu trưởng và bây giờ, kể từ 1974 tư lệnh Quân đoàn 4,
trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt đông-bắc qua ngõ Long Khánh của Tướng Đảo.
Tướng Hoàng Cầm có dưới tay ba sư đoàn: 6, 7 và 341, chưa kể lực lượng địa
phương, yểm trợ thuộc Quân Khu 7 cộng sản. Tương quan lực lượng coi như 4 đánh
1. Nhưng cũng không hẳn thế, Tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng
cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng,
Tổng tham trưởng quân đội Miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư Trung ương cục Miền Nam,
Lê Đức Thọ ủy viên Bộ chính trị, Bí thư chiến dịch. Tất cả đã có mặt tại Lộc
Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây-số đường chim bay.
Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn Hồ
Chí Minh” với ba lô trên lưng như cách “mô tả” thành thạo trong những cuốn sách
“nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam; nhưng Thọ đến từ sân bay Nam Vang, đi xe
hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda chở tới Lộc Ninh (để tránh phi cơ
và biệt kích của phía VNCH phát hiện). Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn
Trà, Tư lệnh Khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn
dược; viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để
bắn (bọn ngụy) sợ đến ba đời.”(15)
Đấy không không phải là lời nói đùa, vì sau này khi
thắng lợi nghiêng về phía quân cộng hòa, bộ tư lệnh mặt trận (cộng sản) đã cho
thay thế Tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường
miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư Đoàn 325, đơn vị tổng
trừ bị quân đội miền Bắc, lực lượng nỗ lực chính đánh chiếm Nha Trang, Phan
Rang đầu tháng 4, và Trung Đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo
lên tăng cường – nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.
III. Trận đánh
Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến
trường đến mức được coi là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn
vị bạn thuộc hai Quân Khu I và II: Sở dĩ các đơn vị này mất sức chiến đấu mau
chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ
thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cỏng cha, mẹ già bị
nạn. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, Tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình
binh sĩ về hậu cứ Long Bình và tổ chức một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ
cho tất cả.
Cất bỏ được nặng gánh gia định, người lính chỉ còn
một hướng trước mặt- hướng địch quân tiến tới. Pháo binh là một yếu tố chiếm
giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực
cộng hòa thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ
huy, điều động. Nay Tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên
những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh Đường 20 lên Định quán, đi Đà Lạt), đồi Mẹ
Bồng Con (cạnh Quốc Lộ I, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía đông và
đông-nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của bộ chỉ
huy; phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa (Phước Tuy), dọc Tỉnh
Lộ 2 những vị trí pháo này sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản).
Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo
này cùng bắn một lượt nên “tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu” mà địch
không dò tìm, phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo). Thứ đến yếu tố
an toàn cho bộ chỉ huy là một yêu cầu tối thượng phải thực hiện, Tướng Đảo cho
thiết lập những vị trí chỉ huy khác nhau được đánh số 1, 2, 3. Khi một vị trí
bị pháo, ông cho di chuyển qua vị trí thứ hai, và luôn thay đổi trong suốt trận
đánh (vị trí thứ 1 ở nhà ông trong thị xã; cái thứ hai ở Tân Phong; thứ ba
trong một vườn vú sữa phía đông của vị trí thứ 2). Để không cho đối phương an
toàn trong vùng họ chiếm giữ, ông tổ chức những trung đội thám sát hoạt động
đằng sau phòng tuyến địch, chỉ định vị trí tập trung quân, vị trí pháo binh
(địch) xong gọi pháo binh (bạn) bắn tiêu diệt.
Điểm cao nhất của thị xã, Trường Trung Học Hòa
Bình, ông thiết trí trung tâm đề kháng với Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn do viên
đại úy cứng cựa nhất trong số những sĩ quan đại đội trưởng, Đại Úy Lê Phú Đa,
Khóa 25 Đà Lạt.(16) Và cuối cùng, bảo mật liên lạc truyền tin của ta, khai thác
truyền tin của địch để phát hiện ý đồ, cách điều quân, các hướng tiến quân của
đối phương để chận đánh, giải quyết chiến trường, phá vỡ mưu định tấn công của
giặc.
5 giờ 40 sáng ngày 9 tháng 4, 1975- “Giờ H của Ngày
N,” chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu (17) với một trận mưa pháo 2,000 quả
đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn
sát của một ngày năm 1972, cũng buổi sáng tháng 4 tại An Lộc. Chính xác một giờ
sau, 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền phong Sư Đoàn
7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư Đoàn 18.
Lính cộng sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của
những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xảy ra ở
những mặt trận “không cần giao tranh” nơi Vùng I và II của tháng 3 vừa qua. Họ
cũng được học tập, “Sư Đoàn 18 chỉ là một đơn vị bộ binh tầm thường, nếu không
nói là yếu kém.”
Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe
tăng này mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẻm gai và mìn bẫy mà
Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí; không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ
phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống,
giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa
cộng sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của
Trung Đoàn 165 không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt
xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại.
Lính Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48 đã đợi
sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân (lưu ý yếu tố một đại đội
đương cự một trung đoàn – tức là tỷ lệ “1 chống 16”; và hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ
khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa
tiễn này trở nên thặng dư, Thiếu Tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng
để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin) bắn
hạ ngay những chiến xa này trên tuyến phòng thủ cuối cùng (nếu như thoát được
những lớp mìn bẫy tiền tuyến.)
Mặt đông của thị xã, dọc Quốc Lộ I, Trung Đoàn 209
(cũng của SĐ 7) số phận cũng không mấy khả quan hơn – bởi họ gặp một đơn vị
đang cơn uất hận – Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long.
Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận
Ban Mê Thuộc, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng
thủ của 82 Biệt Động và Tiểu Đoàn 3/48 của Tướng Đảo.
Sau này Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi Ký
Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư
Đoàn 18 và hậu cứ Trung Đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành
giựt với địch từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng
ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chận lại không phải chỉ do pháo binh và không
quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung
đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc
sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu.”(18)
Mặt trận phía bắc của Sư Đoàn 341 tương đối khả
quan hơn, một phần địa thế không thích hợp cho việc bố phòng của Chiến Đoàn 52
do Trung Tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy. Viên tư lệnh sư đoàn cộng sản Trần Văn Trấn đi
theo với Trung Đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tiến công. Bộ đội cộng sản tùng
thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẻm gai, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến
vùng “Hố Heo Rừng,” nơi Quốc Lộ I chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị
xã.
Nhưng quả như ước tính của Tướng Đảo, đại đội trinh
sát của Đại Úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp
cùng máy bay AC119 Hỏa Long từ tầng trời đan kín thêm bằng đại liên Minigun bốn
nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu. Sư Đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập
gồm những thanh thiếu niên vùng Quảng Bình vào Nam do nhu cầu “chính trị-quân
sự” hơn là một đơn vị tác chiến thuần thành, nên đám tân binh thiếu kinh nghiệm
của đơn vị này quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long chạy
dạt qua phần đất của các Đại Đội 340 và 342 Địa Phương Quân Tiểu Khu Long
Khánh.
Thật không may, đấy lại là những đại đội địa phương
cự phách của tiểu khu, cũng là của vùng chiến thuật, nên cuối cùng đám lính trẻ
tuổi của hai Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn
trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Đại Đội Trinh Sát
của Đại Úy Lê Phú Đa lập lại thành tích “1 chống 16 – Một đại đội chận đứng mũi
tiến công một trung đoàn.”
Tưởng cũng nên nói rõ cũng không thừa chi tiết:
Theo tổ chức “tứ chế” của quân đội cộng sản, một tiểu đoàn có 4 đại đội; một
trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Vậy Trung Đoàn 266 kia đã sử dụng đến 16 đại đội để
tấn công một đại đội trinh sát của Đa. Cho dù rằng Sư Đoàn 341 báo cáo đã chiếm
được một vài cơ sở trong thành phố như dinh tỉnh trưởng, bến xe, khu chợ, nhưng
đến 11 giờ cùng ngày, Thiếu Tướng Đảo tương kế tựu kế, sử dụng những đơn vị trừ
bị, Tiểu Đoàn 1/48 và chiến xa của Chi Đoàn 1/5 đẩy Trung Đoàn 270 ra khỏi
ngoại vi thị xã; phần bên trong Xuân Lộc, ông phối hợp với vị tỉnh trưởng, Đại
Tá Phúc dùng hai đại đội địa phương tăng cường Tiểu Đoàn 1/43 diệt gọn tất cả
các ổ chống cự lẻ tẻ do những đám nhỏ của Trung Đoàn 266/Sư Đoàn 341 xâm nhập
được nhân cơ hội đợt pháo kích sáng sớm.
Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư
Đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh
(ba-mươi người) bị bắt giữ. Đám thanh thiếu niên nông thôn miền Bắc ngồi ngơ
ngẩn giữa nhà cửa, gạch ngói tan vỡ do đạn pháo họ vừa thực hiện, hiểu mường
tượng ra về một phần ý nghĩa của công tác “giải phóng” sau lần giao tranh với
quân lực Miền Nam.
Buổi chiều, Thiếu Tướng Đảo khi đi thanh sát mặt
trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho Phòng Quân Tiếp Vụ sư đoàn
trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới. Chiều tối
ngày 9 tháng 4 không hẳn là thời gian nghỉ ngơi, phía cộng sản lại dụng tâm gây
căng thẳng bằng cách pháo vào khu vực thị xã thêm một loạt liên tục, cũng
khoảng 2,000 ngàn quả đạn trên khắp các vị trí, không loại trừ khu vực dân
chúng, nhà thương, chùa, nhà thờ. Những địa điểm mà họ ước tính dân chúng hay
tập trung để trú ẩn do có ý nghĩ tội nghiệp cam chịu: “Việt cộng sẽ tránh các
nơi dân cư đông đúc, chốn tôn nghiêm, nhà thương trường học.”
Năm 1972, ở An Lộc người dân đã nghĩ như thế và
pháo cộng sản cũng đã đánh giá Bệnh Viện Bình Long là một mục tiêu phải bị hủy
diệt vì bọn ngụy sẽ tải thương người bị thương đến đấy. Đêm 9 rạng 10, ngày 11
tháng Tư, 1975 ở Xuân Lộc cuộc pháo kích cũng mang chung một tính chất với
cường độ ác liệt hơn- do để yểm trợ cho bộ binh tiến chiếm bởi Bộ tư lệnh Quân
Đoàn 4 cộng sản vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc
tấn công. 5giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư Đoàn 341 tiến
chiếm từ hướng Tây-Bắc dọc Quốc Lộ 20; Sư Đoàn 7 từ mặt Bắc đâm thẳng vào thị
xã; Sư Đoàn 6 từ hướng Đông, chân núi Chứa Chan nơi đặt bộ tư lệnh chiến dịch
của Quân Đoàn 4. Tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến- trung tâm thị xã, Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, quân cộng hòa giữ chắc vị
trí, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một
số tù binh bị bắt.
Những ngày chẳng mấy vinh quang này được Hoàng Cầm
viết lại trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Trong ba ngày đầu tiên của chiến
dịch, Sư Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư Đoàn 341 thiệt hại 1,200. Cụ thể
tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hũy “(19).
Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại
Thắng Mùa Xuân: “Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác
liệt. Những sư đoàn của ta. tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh
lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.”
Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp thêm vào chiến
thắng qua hũy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt trận. Ở Sài Gòn, không
khí lạc quan hừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc dục Tướng Toàn cố gắng giữ vững
Xuân lộc để có thế đảo ngược tình thế… để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn sử
dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở
đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết kỵ không thành
công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc. Không thành công trong việc dùng chiến
xa để giải toả áp lực cộng sản tại Xuân Lộc, Tướng Toàn sử dụng một thành phần
hữu hiệu hơn – Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn
3 Pháo Binh Dù trực tiếp yểm trợ.
Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến
thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của Miền Nam
vào trận. Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm
trọng đối với tập thể lãnh đạo bộ tư lệnh chiến dịch. Chiều ngày 11 tháng Tư,
Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo
chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân
Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta
nên sử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ Lữ Đoàn
I Dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hũy căn
cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.”
Nội dung buổi hội cũng bàn thảo lại chiến thuật tấn
công chính diện mà đã không đem lại kết quả từ bốn ngày qua. Hẳn Trà và giới
chức lãnh đạo Trung ương Cục không quên lần tấn công thất bại An Lộc trong Mùa
Hè 1972, cũng trên địa bàn Quân Khu III này với lực lượng Quân Khu 7 cộng
sản. Theo quan điểm của Dũng, Tướng Cầm, Tư lệnh Sư Đoàn 7 ra lệnh cho
các Trung Đoàn 165, 266 tiếp tục giữ vững vị trí đang trách nhiệm để sau đó từ
từ rút đi, riêng Trung Đoàn 209 trở hướng tấn công vào đơn vị nhảy dù vừa nhảy
xuống trận địa. Tóm lại, bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả
(để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí
đóng quân của Tiểu Đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía quân đội cộng hòa
nghĩ rằng phía cộng sản vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu
– Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến
thẳng về Sài Gòn.
Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực
thực hiện kế hoạch. Ngày 13 Trà họp ban tham mưu của Quân Đoàn 4 để thông báo
về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ chính xác: “Địch tăng cường phòng thủ
Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã. Thế nên,
nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (nam Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, lối về Biên
Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời
ta sử dụng pháo tầm xa 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả
năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.”(22)
Trong chiều hướng của kế hoạch này, lực lượng cộng
sản dần rút đi nới rộng vòng đai phòng thủ của thị xã. Tướng Đảo lập tức ra
lệnh cho các đơn vị chiếm lại những vị trí bị phía cộng sản chiếm giữ, tiếp
nhận thực phẩm, quân trang, đạn dược và tải thương. Cũng quả thực ông không
biết được sự thay đổi quan trọng về kế hoạch của Trung ương cục Miền Nam chỉ
đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm được gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ
binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến – mặt nổi của lần xếp lại “một
trật tự mới trên toàn thế giới.”
Hai trái bom CBU 55 “Daisy Cutter” nặng 15,000 cân
Anh rơi xuống từ lòng chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến
của quân cộng sản dọc Quốc Lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long
Khánh của phía quân cộng hòa, nhưng cũng chính là màn khói (bất đắc dĩ phải
chấp nhận) giúp cho lần rút đi của bộ đội cộng sản với 235 xác đếm được trên
trận địa thêm phần hợp lý – Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên
Hòa, nơi Phòng hành quân Tổng Tham Mưu Sàigòn có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên
Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng Bắc và Đông) bằng cách cắt Quốc Lộ I ở Dầu
Giây và Quốc Lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình
hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại – và biến thất
bại này thành một kế nghi binh.
Kế sách này càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được
tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư Đoàn 325, tổng trừ bị quân đội Miền Bắc, đơn
vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3; và Trung
Đoàn 95B biệt lập từ đồng bằng Sông Cửu Long kéo lên tăng cường. Tòa Đại Sứ Mỹ
phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ chuẩn chi $722 triệu
quân viện khẩn cấp cho Việt Nam, nhưng trong phiên họp ngày 17 tháng 4, Ủy Ban
Quân Sự Thượng Viện bác bỏ thẳng thừng như câu nói bất cận nhân tình của hai
Nghị Sĩ Jacob Javits và Edmund Muskie trong show truyền hình đại chúng Face the
Nations. “Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho
ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có.” Hai con người này trong ngày 15
tháng Ba vừa qua cũng đã “cứu giúp” toàn bộ Dân Tộc Campuchia với giá tiền đúng
$82.5 triệu đô-la Mỹ. Đây là quan điểm thống nhất của Thượng lẫn Hạ Viện
Mỹ lúc ấy do Đảng Dân Chủ nắm đa số mà không thiếu mặt hôm nay với Joe Biden,
hai nhiệm kỳ Phó Tổng Thống thời Obama (2008-2016), cũng là ứng viên đảng Dân
Chủ sáng giá nhất của trong cuộc bầu cử năm nay 2020.
Chiến trận lắng xuống, các đơn vị cộng sản dần rút
đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20 tháng 4,
Tướng Toàn và Đại Tá Thọ, Trưởng Phòng Hành Quân Quân Đoàn III đích thân đến
giao cho Tướng Đảo một lệnh mơ hồ như vô cùng kích động: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo
vệ mặt trận Sài Gòn- Hóa ra quân cộng sản đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc
từ một tuần trước. Thiếu Tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng
định: Đó là lịnh của ông Thiệu!
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để
hoàn tất một kế hoạch rút quân bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các
đơn vị tăng phái và yểm trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh.
Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất – Bởi đã mang sẵn mầm thất
bại – Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất
Liệt, Napoléon, Rommel. Nhưng như một phép mầu- một mầu nhiệm do trí tuệ và
dũng lược kết hợp nên thành, cộng với lòng yêu quý chiến sĩ, đơn vị của
một tướng lãnh trên chiến địa, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc
lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly
hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn.
Cũng một phần, lực lượng giữ phần hậu vệ đoàn di
tản là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy. Trung Tá Đỉnh là
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù – Đơn vị đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh
ngày 8 tháng 6, 1972 mà đơn vị cộng sản đóng chốt ở Xa Cam, nam An Lộc chỉ còn
đúng một người- Tù binh tên Nguyễn Văn Tiền. Cũng có một điều cần ghi thêm là
Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn dù đã bất chấp lệnh của tổng tham
mưu, vất bỏ mưu đồ “xé lẻ” đơn vị bách thắng này của ông Thiệu (do lo sợ một
cuộc đảo chánh), nên đã gởi một đơn vị nhảy dù khác – Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do
TrungTá Nguyễn Lô, Lô “lọ rượu” đơn độc đưa quân đi ngược Tỉnh Lộ 2 (từ Bà Rịa
(Phước Tuy) lên Long Khánh) đón đoàn quân di tản. Lô dẫn quân đi như ánh chớp,
và Tiểu Đoàn 7 Dù là đơn vị cuối cùng chận giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngỏ chính
của Sài Gòn ở hướng Bắc.
IV. Kết từ
Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng,
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng Trường Bộ
Binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung
Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình. Ông thấy thấp thoáng bức Tượng
Tiếc Thương tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn.
Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn:
Vì anh là Lính áo rằn
Ra đi nào biết mấy trăng mới về.
Những câu thơ của em ông, Trung Tá Lê Hằng Minh
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến “Trâu Điên,” người lính đã ra
đi từ ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Thị-Thiên, ở chân Cầu Câu Nhi Phường. Cầu
thuộc Phường Câu Nhi, Phong Điền, Thừa Thiên là nơi đâu? Rất nhiều người lính
đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không mấy ai biết. Hôm ấy, sáng 30
Tháng Tư năm 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về, trong số có Anh,
Người Lính mất Quê Hương – Người Lính Sống- Chết một lần với Miền Nam. Với Việt
Nam.
Viết tại Cali, 19 tháng 3, 2020
Phan Nhật
Nam
https://www.aihuubienhoa.com/p122a8137/nguoi-linh-lam-liet-giua-thang-tu-hung-han-phan-nhat-nam
https://www.aihuubienhoa.com/p122a8137/nguoi-linh-lam-liet-giua-thang-tu-hung-han-phan-nhat-nam
No comments:
Post a Comment