VĂN
HỌC VIỆT NAM: PHÉP ĐỐI TRONG THƠ - PHẦN I
A.
CÂU ĐỐI.-
Tổng quát về
phép đối.-
Ta có các định
nghĩa sau đây:
1.
Câu đối:
Câu đối là những
câu văn đi đôi với nhau thế nào cho ý, chữ và luật bằng trắc cân xưng nhau.
2. Vế
câu đối:
Một đôi câu đối
có hai câu đi song nhau, mỗi câu là một vế. Vế thứ nhất gọi là vế trên (vế ra),
vế thứ hai gọi là vế dưới (vế đối).
Lời chú: Trong
một đôi câu đối, chữ cuối vế trên phải là tiếng trắc và chữ cuối vế dưói phải
là tiếng bằng. Khi treo câu đối thì phải treo vế trên bên tay phải, vế dưói bên
tay trái.
3. Số
chữ trong câu đối và các thể câu đối:
Số chữ trong
câu đối không hạn định, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được.
Theo số chữ và
cách đặt câu, có thể chia câu ra làm các
thể sau đây:
a. Câu tiểu đối
là những câu từ 4 chữ trở xuống thí dụ :
"Cứu độ
nhân thế
Khuyến thiện
trừng dâm".
b. Câu đối thơ là những câu làm theo lối đặt
câu của thể thơ ngũ ngôn (5 chữ) hoặc thất ngôn ( 7 chữ). Thí dụ:
"Áo đỏ lắm
phân trâu
Dù xanh che
dái ngựa".
c. Câu đối phú
là câu làm theo các lối đặt câu của thể phú.
c.1. Lối câu
song quan là những câu từ 6 chữ trở lên, 9 chữ trở xuống đặt thành một đoạn liền.
Thí dụ:
"Con ruồi
đậu mâm xôi đậu
Con kiến bò
đĩa thịt bò".
c.2. Lối câu
cách cú là những câu mỗi vế chia làm hai đoạn, một đoạn ngắn một doạn dài, hoặc
đoạn ngắn đặt trên, hoặc đoạn dài đặt trên. Thí dụ:
-"Đất chẳng
phải chồng ( b),/ đem gởi thịt xương sao đặng (t)?
Trời mà chết vợ
(t), /thử xem gan ruột mần răng"(b)?
-"Nghìn
năm bia đá bằng vàng (b), /tiếc thay người ấy (t)!
Trăm tuổi răng
long đầu bạc (t), /khổ lắm con ơi"(b)?
-“Thiên địa vô
tư,(b)/ tích thiện tự nhiên thiện(t)
Thánh hiền hữu
giáo,(t)/ tu thân khả dĩ vinh(b)”
Lược dịch:
Trời đất vô
tư,(b)/ làm điều thiện tự nhiên được thiện(t)
Thánh hiền có
dạy,(t)/ lo tu thân có thể được vinh(b)
c.3. Lối câu gối
hạc hay hạc tất là những câu mỗĩ vế từ ba đoạn trở lên.Thí dụ :
"Trên
quan dưới dân (b),/ sao cho trên thuận dưói hòa (b), /lắm kẻ yêu hơn nhiều người
ghét (t).
Ngoài làng
trong họ (t),/ quý hồ ngoài êm trong ấm (t),/ một câu nhịn là chín câu lành
(b)".
4.
Luật bằng trắc trong câu đối.
Luật bằng trắc
phải theo các lệ sau đây:
1. Câu tiểu đối.-
Những câu tiểu đối nếu đặt được bằng đối với trắc, trắc đối với bắng thì hay lắm.
Thí dụ:
"Tôi tôi
vôi(b b b)
Bác bác trứng
( t t t)".
Nếu không đối
đựơc thế, thí ít nhất cũng phải cho tiếng cuối vế trên trái với tiếng cuối vế dưới. Thí dụ:
"Ô! quạ
tha gà (b)
Xà! rắn bắt
ngóe (t)".
5.
Câu đối thơ.-
Những câu đối
thơ phải theo đúng luật bằng trắc của hai câu thực hoặc hai câu luận trong lối
thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
Lời chú: Có
khi câu đối 5 chữ hoặc 7 chữ mà những câu nầy không theo luật bằng trắc của thơ
ngũ ngôn hoặc thất ngôn Đường luật. Thí dụ:
-"Thủ thỉ
chén đầu lợn
Hung hổ vỗ bụng
hùm".
-"Nước
trong leo lẻo cá nuốt cá
Trơì nắng
chang chang người trói người".
Những câu ấy
theo luật bằng trắc của thể câu đối phú.
6.
Câu đối phú.-
Chữ cuối mỗi vế
và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối với trắc, hoặc trắc đối với bằng. Khi nào mỗi
vế có từ hai đoạn trở lên thì, nếu chữ cuối vế là trắc, các chữ cuối các đoạn
trên phải là bằng hoặc trái lại. Nếu đoạn đầu hoặc đoạn cuối có đúng 7 chữ, thì
đoạn ấy thường theo luật thơ thất ngôn Đường luật. Thì dụ:
"Thánh tổ
bảo Thánh tôn ra mở nước (t)
Thần hồn nát
Thần tính chạy về nhà (b)".
Nhận xét: chữ
cuối vế trên trắc đối với chữ cuối vế dưới
bằng.
Ví dụ 1:
"Ngói đỏ
lợp nghè(b)/lớp trên đè lớp dưới(t)
Đá xanh xây cổng(t)/
hòn dưới nõng hòn trên(b)".
Nên nhận chữ
cuối vế trên trắc thì chữ cuối đoạn trên vế ấy bằng.
Trái lại chữ cuôí
vế dưới bằng thì chữ cuối đoạn trên vế ấy trắc.
Ví dụ 2:
-"Quan chẳng
quan thì dân(b)/ chiếu trung đình ngất ngưỡng ngồi trên(b)/ nào lình, nào cả,
nào bàn ba(b)/ xôi làm sao, thịt làm sao,đóng góp làm sao(b))/ thủ lợn nhìn lâu
trơ cả mắt(t).
-Già chẳng già
thì trẻ(t)/ đàn tiểu tử nhấp nhô đứng trước(t)/ nầy phú, nầy thơ, nầy đoạn một(t)/ bằng là thế, trắc là thế, lế lối là thế(t)/ mắt
gà đeo mãi mỏi bên tai(b)".
Nên nhận:
1. Các chữ cuối
đoạn ( dân, trên, ba, sao) ở vế trên là tiếng bằng thì chữ cuối vế ấy (mắt) là
tiếng trắc. Trái lại các chữ cuối đoạn (trẻ, trước, một, thế) ở vế dười là tiếng
trắc thi chữ cuối vế ấy (tai) phải là tiếng bằng.
2. Hai đoạn cuối
của hai vế câu đối nầy ( thủ lợn nhìn lâu trơ cả mắt / mắt gà đeo mãi mỏi bên
tai) theo đúng luật hai câu thực của bài thơ thất ngôn luật bằng vần bằng.
(Jan.15, 2019)
(Bài viết dựa
vào “Văn học Vệt Nam” của GS. Dương Quảng Hàm). Trình bày, biên soạn: Nguyễn
Cang & Hương lệ Oanh.
Còn tiếp
Phần II: Các
phép đối trong thơ Đường luật.
No comments:
Post a Comment