Nhớ Nhà
Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi
II résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d’un ami.
Tôi là thằng “lăn chai”, lúc nhỏ suốt ngày ở ngoài đồng, lội hết mương nầy đến rạch kia. Tôi không phải đi chăn trâu, nhưng tôi cỡi trâu “nghề lắm”. Leo lên lưng trâu đâu có dễ. Tôi mới sáu, bảy tuổi, đứng vừa qua khỏi ngang nửa bụng trâu, mà trâu đâu có “mọp” xuống như voi cho mình leo lên. Vậy mà thằng tui phóng lên ngang hông trâu cũng được, kẹp “đầu gối” (trâu) trước cũng xong, phăng lên bằng đầu gối sau cũng “phẻ” mà kéo đuôi cũng yên. Trâu tốt hơn “người ta”: không khi nào “đá giò lái”, không “đá ngược” bạn bè.
Nắng, mưa tôi có coi ra gì đâu? Mưa xối xả, mưa
nặng hột,… tắm mưa càng vui. Tắm đến chừng da tái mét, run lập cập mới thôi.
Một lát – có khi cả giờ nữa, nắng lên, khô queo,… thì lội nữa.
Tụi chăn trâu “nhà nghề” chỉ tôi đủ thứ hết: Làm
sao “cột dàm” con nghé để nó khỏi ăn mạ. Người ta vác chổi chà mà đập mầy đó
(không đập trâu đâu, vì chổi chà có thắm thìa gì nó). Nhìn dấu ở cửa hang là
biết có cua ở trỏng hay không, cua lớn hay cua “nghé” (cua con, kẹp đau lắm).
Bắt cá bóng kèo thì phải dùng một chân chận cái ngách nó lại, câu cá trê phải
sửa soạn mồi trước : đập mấy con ốc bươu, để qua bữa sau có mùi hôi hôi là cá
trê nó đớp nhanh lắm, xúc cá ròng ròng coi chừng bị cá mẹ táp cẳng, vì bênh con
(ròng ròng là cá lóc con, cỡ 1/2 ngón tay út, kho tộ mặn mặn, cay cay… ngon hơn
caviar nữa. Mà tôi có bao giờ được ăn caviar đâu mà xạo vậy!). Bọt trắng nhuyễn
trên mặt “mương”, nhưng bọt nào là ổ cá chìa vôi, chả làm gì được hết, bọt nào
là ổ cá “xiêm”, loại cá lia thia xanh mun, đá chết bỏ chứ nhứt định không chạy.
Lên Sai Gon, “lội” gần hết “hang cùn ngỏ hẹp” của
quận Tư (sau nầy là quận Năm, dành tên quận Tư cho bên Khánh Hội), chui vào Đại
Thế Giới coi hát “cọp”, băng cầu chữ Y, qua giang sơn của ông Bảy (Bảy Viễn),
đi chen lấn giựt cái “lưỡi” ông Tiêu cúng rằm tháng Bảy.
“Nắng Saigon, anh đi mà chợt mátBởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
Tôi có biết lụa là gì đâu? Hà Đông ở đâu? Thôi, tôi xin phép Nguyên Sa
mà sửa lại:
“Nắng Sai Gon, tui đi mà chẳng ngánBởi vì da mốc thích “đui then” rồi.
Ra Chasseloup, đến mùa me chín, leo lên “rung”
mạnh. Me rụng đầy đầu tụi ở dưới đất. Thằng nào ở “trển” vậy? Thằng Đông chớ ai
vô đây.
Trước Bộ Y Tế có hai cây gừa, trái tròn, ngọt, cây
chót vót, lại cũng thằng Đông leo. (Sau 75, tôi vẫn còn thấy hai cây nầy, già
lão rồi, có ai để ý tới làm chi)
Vào lính, theo đơn vị hành quân, nhớ từng con suối
nhỏ, từng gò mối, từng cây cầu khỉ,… nhứt là những nơi “đụng” nặng. Lính tử trận.
Quan cũng đền nợ nước. Thứ hai, người vợ trẻ đưa chồng lên Đức Hòa. Thứ Bảy, đã
chít khăn tang. Nhưng tôi vẫn thương vẫn nhớ cái quận “nắng bụi, mưa bùn”…
nghèo xơ nghèo xác nhưng đầy ấp tình người. Hoàng hôn xuống, nghe ảnh ương,
nhái bầu, nhái bén, cả bao nhiêu thứ côn trùng hòa tấu “symphonie pastorale”
nghe mà rụng rún.
Giờ đây, lưu lạc xứ người, muốn nghe… có đâu mà
nghe.
“Lòng quê đi một bước đường một đau ”
(Kiều)
Tâm trạng nhớ nhà là vậy.(Kiều)
Tôi không dám “nghĩ” hoặc “đoán” tình cảm của ai
khác. Riêng với tôi thì: Tình đầu, tình đuôi, tình giữa… gì gì, thì với thời
gian cũng sẽ khuây khoả, rồi phai, rồi tàn và rồi thuộc về dĩ vãng, dù nó
“apporte chaque jour tout le bien, tout le mal”.
Nhưng, nhớ nhà thì hoàn toàn khác, lạ. Như một định
luật tự nhiên, “tên” nào “lội” nhiều, lăn lóc với “đất nước” nhiều,.. khi về
già, nhớ nhà càng ray rứt, càng nhức nhối.
Cái khổ là càng muốn quên, càng lại nhớ. Có những
đêm thức giấc, nhớ quá, không tài nào ngủ lại được. Nhớ ai, ai đâu mà nhớ. Nhớ
NHÀ!
Lúc ở Chasseloup, đọc sách tả Tour Eiffel,
Montparnasse, Les Invalides, Chateaux de la Loire.. náo nức muốn xem lắm. Giờ
xem qua rồi thì “thôi”. Nó không “thấm” vào xương, vào tủy, vào tim, vào óc như
cái nhớ nhà.
“… Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Chắc tại tôi là đứa “chả giống ai”. Thôi đành chịu
vậy.Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương. ”
(Làng Tôi – Chung Quân)
Mấy trang viết nầy không đầu, không kết, ý tứ lung
tung, “à bâtons rompus”, “du coq – à – l’âne”. Bà con có xem thì “xính xái”, từ
bi hỷ xã dùm. Thiện tai, thiện tai
Thôi thì cứ xem như :“mémoires d’outre tombe” của
tôi vậy.Trước sau gì, cát bụi cũng sẽ về cát bụi
QUANDO SATIS DIXISTI, PERISTI
(Quand tu auras dit assez, tu seras mort)
(St Augustin)
“Mai đây trong chuyến tàu vạn cổ(Quand tu auras dit assez, tu seras mort)
(St Augustin)
Nếu có người thương đến tiễn đưa
Xin hãy rắc thêm vào huyệt mộ
Chút tình hệ lụy núi sông xưa”
(Giang Hữu Tuyên)
Đúng, hệ lụy núi sông xưa!
“Objets inanimés, avez vous donc une âmeQui s’attache à notre âme et la force d’aimer“
Thôi đành
“Nhật mộ hương quan hà xứ thịYên ba giang thượng thử nhân sầu
”Thôi Hiệu”
Vậy, tôi đã làm được gì?
· Gia Đình: Trả hiếu?
– Má tôi mất sớm quá, tôi có nhớ gì đâu, nhứt là
mấy tháng cuối cùng, mỗi lần tôi muốn tới gần Má tôi, thì các dì, cô, cậu… (đều
ở nhà tôi để săn sóc má tôi) bảo: “Con ra ngoài chơi đi, để má con ngủ”, ngủ
yên… Yên Giấc Ngàn Thu.
– Tôi có làm được gì giúp Ba tôi đâu. Chưa xong y
khoa, niềm an ủi duy nhứt của tôi là: tôi đã cố hết sức nghe lời Ba tôi, dĩ
nhiên, đôi lần chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện “đâu đâu” làm Ba tôi không vui.
– Tôi rất mừng là đã cùng vợ tôi quyết định “sinh
tử”: Chết thì chết chung, không thể sống với vc được. Tụi nó không lương tâm,
không tim, không óc, không cả tình người. Ít nhứt, dung thân ở xứ lạ, không ai
ngăn cấm con tôi: “Mầy là con sĩ quan ngụy, không được lên cấp ba”. Đó là
nguyên văn của tên “giám hiệu” trường Petrus Ký (tôi không muốn nhắc tên mới
của trường) khi đứa con trưởng của tôi học xong lớp 9 (classe de 3è) không được
lên lớp 10 (classe de seconde). Đuổi học.
·
Tổ Quốc: xin cho tôi mượn hai câu thơ của một nhà
văn “gốc lính“
“Cúi đầu tạ với quê hươngTôi còn một nửa đoạn đường chiến binh”.
Tôi đã đội trên đầu sáu chữ: DANH DỰ, TỔ QUỐC,
TRÁCH NHIỆM. Ngày nào còn thở tôi còn tôn thờ. Chỉ khi nhắm mắt thì trách nhiệm
của tôi với tổ quốc VNCH mới kể là hết.
Je ne fléchirai pas ! Sans plainte dans la bouche,Calme, le deuil au coeur, dédaignant le troupeau,
Je vous embrasserai dans mon exil farouche,
Patrie, ô mon autel ! Liberté, mon drapeau !.
Victor Hugo (ultima Verba)
THAY LỜI CUỐI
Những dòng sau đây, tôi:
– Kính dâng quý Trưởng Thượng, Niên Trưởng đã rời
Việt Nam trước 30-04-1975
– Gởi đến thế hệ trẻ, những người chưa “nếm” mùi
vc.
Tôi dạy vạn vật ở Petrus Ký từ năm 1963. Lúc bấy
giờ, thi Tú Tài 1 và 2 còn vấn đáp. Chưa khi nào tôi hỏi lý lịch thí sinh trước
khi cho điểm. Nói chung, trong suốt lịch trình thi, tất cả Giáo sư đều xử sự
như thế..
Tết Mậu Thân, con đường tiếp liệu (y dược, y cụ..)
của đơn vị tôi bị vc (đã chiếm Vinatexco, Vifon, và các hãng kế cận) đóng chốt.
Tôi phải liên lạc với cố vấn đơn vị tôi, trình với cố vấn trưởng (cố vấn cho Tư
Lệnh Sư Đoàn) cho phép tôi dùng trực thăng riêng của ông về căn cứ 73 tồn trữ y
dược, nhứt là bông, băng, băng cá nhân, nước biển và trụ sinh..
Trớ trêu thay: Người thương binh đầu tiên được
truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một vc.
Trong hơn bốn năm trấn ở Đức Hòa, tôi đã gọi tản
thương bằng trực thăng về Tổng Y Viện Cộng Hòa ít nhứt là mười vc bị thương
nặng. Không tản thương thì chắc chắn 100% chúng đi “chầu Bác” rồi.
Dù mưa, dù nắng, một giờ khuya, hai giờ sáng,… chưa
lần nào phi hành đoàn hỏi tôi tản thương lính nào vậy? QLVNCH hay vc. Tất cả
đơn vị Quân Y QLVNCH đều làm như thế.
Tôi muốn viết thật rõ, hét thật to, ý nghĩ thật
trong sáng: Tôn chỉ của dân VNCH, của QLVNCH, của chính phủ VNCH là TÔN TRỌNG
CON NGƯỜI, cách hành sự chứa đầy tình người.
Sau 04/1975, bọn khát máu chóp bu vc đã ra lệnh phá
tan nát xã hội miền Nam, mà nền tảng là gia đình.. Bao nhiêu gia đình sĩ quan
QLVNCH, viên chức VNCH bị gây áp lực đến đổ vỡ.
Bao nhiêu dân miền Nam bị lừa gạt, rồi bị ép tử, bỏ
cho chết, chết đói, chết vì bệnh tật,… ở những khu gọi là kinh tế mới..Bao nhiêu thanh thiếu niên “con ngụy” bị ép buộc qua Miên làm bia đỡ đạn cho vc.
Bao nhiêu trăm ngàn người VNCH đã thiệt mạng trên đường tìm tự do, thoát ách vc.
Trong mấy ngàn năm lịch sử dân tộc, có lần nào mà
người dân Việt Nam, vốn rất gắn bó với “quê cha đất tổ”, với “mồ mả ông bà”
liều chết, bỏ nước ra đi tìm tự do đông đến số triệu.
Tôi viết để quý vị Trưởng Thượng và thế hệ trẻ hiểu
được mức độ khát máu, tàn ác, vô nhân đạo, đầy thú tính của vc.
Riêng cá nhân tôi, tôi không thù hằn vc vì:
1- Tôi đã hấp thụ nền giáo dục nhân bản miền Nam2- vc không xứng đáng để tôi thù hằn, vì vc đã mất hẳn tính và tình người.
Tôi rất cám ơn, thương mến, kính yêu “bà xã” tôi đã
chịu bao nhiêu cay đắng, cực khổ tảo tần giữ vững gia đình, lo cho bốn đứa con
tôi.
Hiện giờ, chúng là công dân đơn thuần (simple
citoyen) của quốc gia tạm cư, không là “quan to, quan bé” gì hết. Nhưng, người
ta đã đối xử với chúng tôi rất ấm áp tình người.
Nguyễn Sơ
Đông
https://www.tvvn.org/nho-nha-nguyen-so-dong-2/304Đen – Llttm -dsc
No comments:
Post a Comment