CÁCH THỨC HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT (I)
Làm
thơ Đường là một thú vui tiêu khiển nhưng đặc biệt hơn nữa là xướng họa thơ Đường
mới gây nhiều hào hứng thú vị. Ta có thể xướng họa nhiều thể thơ khác nhưng thơ
Đường là phổ biến và đặc sắc nhất. Trong lịch sử văn học Việt Nam có nhiều giai
thoại về xướng họa thơ Đường do một nhóm hay một cá nhân khởi xướng, đáng kể nhất
là Hội Tao Đàn của vua Lê Thánh Tông thành lập hôi thế kỷ 15. Nhà vua là người
có tài thơ văn, đứng ra thành lập Hội Tao Đàn tập họp 28 ngôi sao sáng mà đại
nguyên soái chính là nhà vua. Nhà vua nổ lực trong một thời gian ngắn làm được
9 bài, sau đó các hội viên họa lại, tập hợp thành quyển "Quỳnh Uyển Cửu
Ca"( rất tiếc tài lệu nầy bị thất lạc hay bị thiêu hủy). Thời Pháp thuộc
có hai danh sĩ là Tôn Thọ Tường và Phan văn Trị tung ra một loạt bài xướng họa
làm chấn động giới sĩ phu yêu nước, một người thì theo Pháp (Tôn Thọ Tường),
người kia thì chống lại chủ trương đó (Phan Văn Trị).
Thơ
xướng họa lúc đầu do cá nhân sáng tác một bài thơ rồi thách thi hữu trong nhóm
họa, bài thách gọi là bài xướng. Sau nầy nhờ phương tiện truyền thông nhanh
chóng có người làm thơ đăng báo yêu cầu độc giả họa. Phong trào nầy phát triển
được nhiều người hưởng ứng, trong một thời gian dài thập niên 60, sau đó chìm
đi.
Xướng họa là gì ?
Một
người khởi xứơng làm một bài bát cú hay
tứ tuyệt rồi một người hay nhiều người lấy vận bài đó làm bài khác họa lại để
trả lời theo ý người đó hoặc nói ngược lại. Bài họa cũng phải có điệu có cách.
Người xướng dùng điệu nào thì người họa cũng dùng điệu ấy: bài xướng phá lục
hay làm theo lối thủ vỹ ngâm, lối hồi văn, lối điệp tự hồi văn, lối thủ vỹ quán
châu, lối triệt hạ...thì bài họa cũng phải theo các lối tương ứng ấy. Đặc biệt
có khi họ dùng lối khoáng thủ (8 chữ đầu của 8 câu ráp lại đọc từ trên xuống dưới
thành một câu có ý nghĩa riêng), hoặc 8 chữ đầu dùng chỉ một chữ đặt ở đầu cặp
trạng và luận mà thôi, thì mỗi người họa phải theo đúng kiểu cách như vậy mới
đúng điệu. Cần lưu ý khi người xướng dùng chữ vận có nghĩa gì thì người họa phải
dùng chữ vận có nghia đó. Ví dụ khi người xướng dùng chữ vận xanh (màu xanh),
vàn (do từ Hán Việt “vạn” đọc trại: mười
ngàn) thì người họa khi tới mấy chữ đó phải dùng chữ chỉ màu xanh, và vàn chỉ
10 ngàn chứ không thể dùng chữ xanh với nghĩa xanh xao hay chữ vàn với nghĩa vô
vàn được. Còn nếu không, thì bài họa kém giá trị ! Có khi bài xướng dùng vận chết
( tử vận) : với tiếng đơn, mình theo nghia tiếng đơn đó mà họa; với tiếng đôi
như: bâng khuâng, lẳng lơ, lần khân, khúc khiu,
sật sừ, thiên thai, ríu rí...thì mình có thể dùng tiếng đôi đó mà họa lại
cho ăn với ý bài xướng, trái lại mình lấy một tiếng vần mà dùng sai nghĩa thì
bài họa không ăn với bài xướng ( biên khảo
của Diên Hương, tác giả sách “Phép làm thơ”, nhà sách Khai Trí xuất bản
năm 1961). Vì dụ:
Bài xướng :
Hỏi
thăm quan tuần mất cướp :
Tôi
nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó
lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy
của đánh người, quân tệ nhỉ!
Thân
già da cóc, có đau không?
Bây
giờ mới khẽ sầy da trán,
Ngày
trước đi đâu mất mảy lông.
Thôi
cũng đừng nên ky cóp nữa.
Kẻo
mang tiếng dại với phường ngông!
Nguyễn
Khuyến
Bài
này tác giả gửi cho ông Tuần phủ Đích là bạn học, người làng Tiên Khoán, huyện
Bình Lục (Hà Nam). Ông Đích vốn có tính keo kiệt bủn xỉn với bạn bè, do đó thường
bị Nguyễn Khuyến giễu cợt đả kích. Về sau ông Đích được bổ làm Ngự sử ở Kinh, lại
hiềm khích riêng với ông. Lúc ông Đích hưu quan về nhà, chỉ lo làm giàu, rồi bị
cướp, ông nhân đó gửi bài này “hỏi thăm”. Ông Đích cũng có bài hoạ lại:
Ông
thăm tôi cũng giã ơn ông,
Nó có lôi tôi đến giữa đồng.
Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu,
Nào ngờ ky cóp lại như không.
Chém cha thằng quỷ đen tai mắt,
Chẳng nể ông già bạc tóc lông.
Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy,
Thương ông tuổi tác, cháu thời ngông.
Nhận xét:
Trong
câu thứ 2 chữ cuối bài xướng: "giữa đồng"( tử vận), được lập lại y
nguyên ở bài họa mà nghĩa cũng hợp với nghĩa trong câu của bài xướng, nên chấp
nhận !
Ví dụ bài xướng họa kinh điển tả một cảnh:
Vọng phu thạch
Hình
đá ai đem đặt biển đông,
Giống
hình nhi nữ dạng ngồi trông.
Da
dồi phấn tuyết phơi màu trắng,
Tóc
gội dầu mưa giũ bụi hồng.
Ngày
ngắm gương ô soi đáy nước,
Đêm
cài lược thỏ chải trên không.
Đến
nay hỏi đã bao nhiêu tuổi,
Trạc
trạc bền gan chẳng lấy chồng.
Tôn Thọ Tường
Cũng
tả cảnh đó, bài họa của Song Thanh:
Nhìn
con chạnh tủi lệ sầu đông
Hóa
đá trơ hình dạng ngóng trông
Đêm
hứng sương chan đầu điểm bạc
Ngày
phơi nắng ráng má tô hồng
Gió
lay những tưởng thuyền ai ghé
Trăng
dọi nao dè bến nước không
Sương
tuyết chi sờn gan sắt đá
Khư
khư một dạ chẳng hai chồng.
Song Thanh
Cũng
đề bài trên, sau đây là bài họa nghịch:
Nghe
nói vọng phu núi phía đông
Chân
đi chưa tới mắt chưa trông
Bạc
đen bịa lắm tình quân tử
Tiêt`
nghĩa buồn cho phận má hồng
Ôm
trẻ dầm sương ai biết có
Trông
chồng thành đá kẻ rằng không
Trơ
trơ một khối từ sơ tạo
Thêu
dệt ra chi chuyện ngóng chồng.
Thường Tiên
Đôi
khi một người làm bài chưa xong rồi ngưng thì một hoặc 2,3 người khác làm tiếp
cho trọn bài trọn ý. Cách thông thường là làm theo thể liên hoàn, hoặc lấy 2,3
chữ cuối câu chót, hoặc nguyên câu chót của bài trước mà làm câu phá của bài
sau. Còn vần thì lấy vần bài trước hoặc lấy vần trong đề. Đến câu chót thì kết
thúc theo lối thủ vỹ ngâm, hoặc lấy 2 chữ cuối câu đầu bài trước đem làm hai chữ
chót bài sau hết.
Tóm lại :
Bài
thơ thất ngôn bát cú thường được lựa chọn. Nếu một bài theo đúng luật: âm, vận,
thanh, đối, có chủ đề và nội dung hay, tryền cảm thì được mọi ngừơi chấp nhận
làm bài xướng để họa theo. Bài họa cũng phải là bài Đường luật, đúng cách:
niêm, vận, luật, đối, như bài xướng, nội dung cũng biểu đạt những cảm xúc, thái
độ, suy nghĩ với mức độ theo các khía cạnh khác với bài xướng có khi phản bác lại
lập luận của bài xướng. Bài họa phải giữ
đúng vần quy định của bài xướng và tránh lỗi "khắc lục" . Nếu bài hoạ
có nội dung khác bài xướng thì không thể gọi là bài họa mà chỉ là mượn vần của
bài xướng mà thôi. Nhận định nầy ngày nay, theo trào lưu thơ mới, nên khó chấp
nhận được vì bị câu thúc, gây nhàm chán
cho nên người ta có xu hướng "họa phóng" để giải bày những suy nghĩ
khác với ý của bài xướng.
Cách họa:
Có
2 cách họa thơ Đường luật là: Họa Hạn Vận và Họa Phóng Vận
1. HỌA HẠN VẬN:
Họa
hạn vận là phải theo sự hạn định trước, không được thêm bớt. Hạn có nghĩa là hạn
chế. Người ta ra đề và cho vần nào thì mình phải dùng vần ấy. Thể Họa Hạn Vận nầy
khác với thể Họa Phóng Vận, vì họa hạn vận không có bài xướng để dựa theo, do
đó, ta phải:
-
Diễn tả ý thơ theo đầu đề đã ra sẵn.
-
Dùng đúng 5 vần hạn định (trong 8 câu) và phải hạ vần đúng theo thứ tự đã hạn định
mà người ta đưa ra cho mình.
Thí
dụ: Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức như sau:
a.
Ðầu đề (nội dung) là:
"Trống
treo ai dám đánh thùng
Bậu
không ai dám dở mùng chun vô".
b.
Năm vần hạn định theo thứ tự là: xô - cô
- vô - ô - rô.
Bài
thơ sát với đầu đề, hạ đúng 5 vần hạn định, được giải nhất mà tác giả lại là một
thiền sư chân tu, như sau:
Nào
phải là ai dám giục xô
Thuận
tình trước hết tự nơi cô
Có
cho mới dám trao dùi đánh
Không
hẹn nào ai đẩy cửa vô
Mảng
sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham
vui quên hết chuyện dâm ô
Thói
hư thuần thước xưa còn lạc
Đừng
học làm chi giống nhảy rô .
Còn
có một lối hoạ hạn vận rất khó, xin kể lại một câu chuyện như sau: Mùa Hè năm
1926, trong dịp thi sĩ Đào Sĩ Nhã đến thăm gia đình họ Phan ở Hưng Yên. Ông
khách Đào Sĩ Nhã thách lão thi sĩ Phan Mạnh Danh làm một bài thơ Nôm Đường luật
với các điều kiện sau:
-
Đầu đề: Xuân Khuê
-
Hạn 5 vần: chờ - hờ - thưa - tơ - thơ
-
Phải dùng 19 chữ: một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, trăm,
ngàn, vạn, đôi, cặp, nửa, trượng, thước, tấc.
Sau đây là bài thơ Nôm hoạ hạn vận của lão
thi sĩ Phan Mạnh Danh:
Xuân
Khuê
Một
mong hai đợi bốn ba chờ
Mười
hẹn đêm trăng tám hững hờ
Nửa
gối năm canh gà gáy giục
Tấc
mây sáu cánh nhạn tin thưa
Trăm
lần cặp mắt đôi hàng lệ
Chín
khúc bên lòng vạn mối tơ
Ngàn
trượng thành sầu đo thước khó
Biếng
đem bảy vẻ dệt nên thơ .
(Phan
Mạnh Danh)
2. HỌA PHÓNG VẬN
Họa Phóng Vận là phỏng theo vần của bài
xướng để họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,
còn ý nghĩa thì hoặc phụ theo cho rộng thêm, hoặc trái hẳn lại (phản đề).
Họa phóng vận còn chia ra 4 hình thức
là: Họa Nguyên Vận, Họa Đảo Vận, Họa Hoán Vận và Hoạ Tá Vận.
a. Họa Nguyên Vận: là họa đúng 5 vần của bài
xướng và hạ vần cũng đúng y theo thứ tự như cách hạ vần của bài xướng. Trong
cách họa nguyên vận thường thì có bao hàm họa ý (hoặc đối ý) và đối luật với
bài xướng. Nếu không đối luật được thì cũng có thể họa luật.
b. Họa Đảo Vận: là họa ngược thứ tự của 5 vần
từ dưới lên trên, thay vì họa nguyên vận là họa từ trên xuống còn họa đảo vận
là họa từ dưới lên.
c. Họa Hoán Vận: là thay đổi thứ tự vị trí
các vần của bài xướng tùy theo ý người họa, sắp xếp lại sao cho vần điệu nghe
êm tai hơn cách sắp xếp của bài xướng.
d. Họa Tá Vận: Tá vận là mượn vần. Họa tá vận
là bài họa chỉ mượn 5 vần của bài xướng để làm một bài khác mà nội dung hoàn
toàn không liên quan gì đến bài xướng cả. Cách họa này ngày nay hầu hết được người ta áp dụng vì dễ làm .
---------------------------------------------------------------------
(Còn
tiếp phần II)
Tổng hợp, biên soạn: Nguyễn Cang,
Hương Lệ Oanh, Trần Lâm Phát
Tài liệu tham khảo:
1. Phép làm thơ của Diên Hương, nhà xuất bản Khai Trí năm 1961.
2. Khảo luận thơ của Lam Giang, nhà xuất bản Sơn Quang năm 1967.
3. Tài liệu thơ văn trên net.
No comments:
Post a Comment