Nhớ Phạm Đình Chương
Hoài Trung, Thái Thanh, Hoài
Bắc Phạm Đình Chương
Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình
Chương ra đời tại Hà Nội vào năm 1929, trong một gia đình nghệ
sĩ, học Trường Bư Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng tác
nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc như Tiếng Dân
Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay những sầu khúc nhạc phổ thơ
như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...
Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình
Chương từ trần tại Quận Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm
ngày 22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc Phúc, hay
Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường Bưởi, được viết ngay sau khi
có tin buồn.
Chuông điện thoại réo lên trong
đêm khuya. Một cú phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: "Phạm
Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa". Tôi đặt phone xuống mà
thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh
giới tử sinh thật là mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít
lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy năm trước mất Thanh
Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần
có bạn, mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10 năm, rồi
sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi nước sang được đến đây thì bạn
đã đi vào tịch mịch. Bạn ta Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca
khúc tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban Hợp Ca Thăng Long đã
tắt.
Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã
lâu, vào khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. "Khi
mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng với môi tươi"(1).
Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại
ở chùa Trầm, chùa Thày, Tây Phương Hoàng Xá (2).
Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh
là Hà Thành hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng thực chất nó
là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó
còn có tục lệ riêng của nó. Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn "phi
cao đẳng bất thành phu phụ". Thời tụi tôi thì cái standard về một
đấng trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: "Đẹp trai, học giỏi,
con nhà giàu". Phạm Đình Chương xét ra hội đủ những điều kiện ấy:
Học trò Trường Bưởi, người cao ráo sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi
tiếng. Lại còn đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong những dịp
hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học trò nhà quê ra tỉnh học, từ
thời áo dài mũ trắng thì Phạm Đình Chương tư cách quá.
Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương.
Thế Chiến thứ hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các thành
phố phải "phòng thủ thụ động", các trường học phải
đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động là nghỉ; học trò kéo
nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt
cho một số công tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự tình. Về
quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông, câu cá, bắn chim. Hoặc là
sẵn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa
Thày, chùa Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều nằm trong vùng
quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây
Phương thăm ông Phật nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến
gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ đán nào kêu đục, bắn
một phát súng cao su lên vòm đá là dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày
(Sài Sơn) thăm chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang Cắc Cớ
nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. "Hội chùa Thày vui thay
Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi". Chương
ơi, Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ con đê Hạ Hiệp không?
Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể
nào về thăm được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.
Phạm Đình Chương rất yêu miền
Quốc Oai - Sơn Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó còn là
quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt
cánh đồng. Chương tự nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó Chương về
thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội và anh học trò nhà quê càng có
dịp gần gũi nhau hơn Khi mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo
miền Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú lảnh lót gọi hè về
trong rặng vải bên sông. "Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc" (5),
con sông này ngoài mùa ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò
tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi đạn lạc ở thành phố,
vừa cắm trại vừa ôn thi.
Nhưng đến năm 1945, thanh niên
như Chương và tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao nhiêu vấn đề
trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn, hàng triệu người chết đói. Nhật đảo
chính Pháp ngày 9 tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II kết
liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi
đời. Cách Mạng Tháng 8 Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình
dân học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê hát "Lên
Đường", lao đầu vào một cuộc chơi mới không kém phần lãng mạn:
đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung
đoàn thủ đô. Như lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi khoác ba
lô lên đường kháng chiến.
Tây tiến
đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh
màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Quang Dũng)
Những năm đầu kháng chiến (1948,
1949, 1950) có những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn Cây
Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần, Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa
có chợ Rừng Thông. Đây là nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua
bán tạo thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây giờ sốt rét, xanh
rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và
được dịp là phải về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...
Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác
ba lô, đổ bộ lên Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa nhớp
nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở đầu đường, hiện ra một quán
nước thanh bai, lịch sự mang một cái tên khá là kiểu cách"Quán Thăng
Long". Ở trên vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và
một cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng thượng đang
ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của Phạm Đình Chương và cụ N. T.
Đức, một danh cầm của toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ
vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở đây Thăng Long Đông
Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng
đang ngồi trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc kiềng chạm bằng
bạc của một thời khuê các, như Thái Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang
nghiêm chỉnh ngồi đan.
Người vui nhất khi tôi được gặp
là bà thân của Chương. Bà hỏi thăm "quê mình bây giờ Tây nó đánh đến đâu
rồi". Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có tin tức gì. Anh Phạm
Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài"con
vỏi con voi" và "con mèo trèo cây cau" nhạc
hài hước của Nguyễn Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên khu 3,
chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa mới được giải thưởng về bài
hát "gì mà có con cò bay lả bay la".
À ra thế bạn ta anh công tử Hà
Nội đang đưa ca dao vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh cò
bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào rạt lúa thơm mềm (6) có
phải là cánh đồng Bương Cấn khi chúng ta "Lên núi Sài Sơn ngóng
lúa vàng" (7).
Tôi nhớ mãi lời bà thân của
Chương khi đưa cho tôi gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: "Giữ
lấy mà dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này đâu". Đúng
như thế, dạng "tạch, tạch, sè" (tiểu tư sản) như Chương và tôi thì dù
sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng.
Nivaquine thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho "tổ chức" mà
thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em đã "áo bào
thay chiếu ..." (8) còn đa số dân tạch tạch sè là kẻ trước người
sau "dinh tê" về Hà Nội. Những va chạm với thực tế làm cho giấc mơ
tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô
ích. Tôi về cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.
Gia đình Chương kỳ này có thêm
một nhân vật lừng danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ Đại và
quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn nhậm của viên tướng Mạnh Thường
Quân Nguyễn Sơn. Ở đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa lớn
để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương phục vụ trong phòng văn nghệ
của một đại đoàn. Quán Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp Ca
Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn nhớ rõ gia đình Phạm Đình
Chương về trước hay sau cái chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ
biết là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà vô thẳng miền Nam
lập nghiệp.
Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học
nghề lính tại trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi, thấy đầu
đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng
Long. Báo hàng tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái
Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy. Ban Hợp Ca Thăng
Long đang rực sáng, những thành viên của nó đang được mến yêu. Người Sài
Gòn vốn bộc trực "yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là
ghét" mà đã yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long
trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban Thăng Long lại càng
ăn khách. Ngưới ta mua "giấy" báo xem thật đông, vỗ tay thật nhiều
nhưng còn chưa "đã". Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại
để tìm cách đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng cái
chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người miền Nam ái mộ ồn ào như
thế, dễ thương như thế.
Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy
tôi có lúc đã tự hỏi: "Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai
năm, Ban Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?" Tôi vốn dốt về
nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa ra ý kiến có tính cách
kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của
Ban Hợp Ca Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe tiếng hát
chen tiếng ngựa hí(Ngựa Phi Đường Xa), vui lâng lâng khi nhìn cánh
cò bay lả bay la trên đồng lúa chín vàng (Được Mùa), vui đầm
ấm khi nghe tiếng hò dô vang trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui
thấm thía nghẹn ngào khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa
mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc, cái vui
đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng người.
Đồng bào miền Nam xưa nay thừa
thãi điệu buồn nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe mạnh.
Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể
đến một yếu tố đầy cảm tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp
ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá. Một sự kết hợp đẹp đẽ
quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp ca Thăng Long lại có thêm một thành viên
mới: Khánh Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc - Khánh Ngọc một
lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng Long càng thêm sung sức.
Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954,
Ban Hợp Ca Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy ban Hợp ca
cùng với "quái kiệt" Trần Văn Trạch, thành lập ban Gió Nam ra công
diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo
chí Hà Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam mát lành thay. Nghe
dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi
ra xem Gió Nam trình diễn.
Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi.
Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng vỗ tay
dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt. May quá gặp Ngọc Chả Cá một
cây công tử Càn Long Hà Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở
Ngọc?).
Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng
ít khi nào nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị ban Hợp ca
Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con
nghèo trước cải lương, tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước
khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban Hợp ca Thăng Long với
một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên
tục. Khán giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới tân kỳ sinh
động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước trưởng thành của tân nhạc và trở
nên khuôn mẫu cho những đại nhạc hội sau này.
Buổi trình diễn vừa kết thúc,
toàn ban Gió Nam ra chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những
nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó hoa vẫy vẫy, nụ cười
rộng mở. Chương không thể nào biết rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một
người bạn cũ của Chương đang vỗ tay kịch liệt.
Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ
nhất của ban Hợp ca Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương sáng
tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp ca Thăng Long như Tiếng
Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai
đoạn này.
Không biết tôi có chủ quan không
khi nghĩ rằng Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ một anh học
trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương, con người, thiên nhiên đều là bè
bạn. Ngựa phi đường xa thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi,
đồng ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy cá. Thế vẫn còn
chưa hết, Chương còn rót một ly rượu mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe
đi, có một nụ cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như tiếng reo
vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ
mong bóng con của người mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi
đá:
Quê hương tôi nghèo lắm ai
ơi Mùa đông thiếu áo (9) ...
Nhưng liều lượng của điệu buồn
trong nhạc Phạm Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ như
một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi lên sắc trắng mà thôi. Mà
điệu buồn cũng được nhắc đến bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở
ra, hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là người hướng nội, đi
tìm thú đau thương trong những kiểm tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc
Phạm Đình Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca Thăng Long
...
Giai đoạn sáng tác thứ hai của
Phạm Đình Chương bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa
vào khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng cũng tìm về hướng
khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc,
Thái Thanh và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères Louis cũ).
Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn với Phạm Đình Chương cùng với
Thanh Nam, Mai Thảo. Tụi tôi đến "hầu bài" bà thân của Chương để được
ăn những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu rán ...
Lúc này, hình như Chương muốn ra
khỏi vùng hào quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình thường
nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi
dép không quai lẹt xẹt, chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ
cười kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm râu mép chàm ràm,
rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang
phóng túng hình hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng
giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm Đình Chương.
Ban Hợp ca Thăng Long, với sự
phân liệt như thế tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng Long
gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh. Ban Thăng Long sống lại kỳ
này, tuy vẫn được tán thưởng nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy
đã mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi xa, còn tiếng reo
vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình Chương cũng không còn xuất hiện. Trong
thời kỳ này ban Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được hoan
nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này không phải của
Chương mà của một tài danh khác: Văn Phụng.
Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng
tác rõ như gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã khép lại
rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau thương và tiếng khóc. Nhưng khóc
than rên rỉ không phải là nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là
người hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau thì có sẵn và
Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán hận thì không. Cho nên những khúc bi ca
sau này như Nửa Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn Mưa
Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền, Trần Dạ Từ, Hoàng Anh
Tuấn ... Chương làm công việc phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên
tâm sự của mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được yêu thích
qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương nó vẫn như một sự "Chẳng
đặng đừng". Về bề ngoài, hai giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ
đối nghịch nhau nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tân hồn nhân ái của
tác giả.
Nói cho ngay từ thập niên '60 trở
đi, việc ca hát đối với Chương cũng là một sự "chẳng đặng đừng". Thì
cũng phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông coi phòng trà ca
nhạc "Đêm Màu Hồng" Chương cũng làm chơi chơi, cho
có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm
Màu Hồng. Đây là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về một
thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã xa, về một ban Hợp ca Thăng
Long đã tàn. Phạm Đình Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người mộ
điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được yêu cầu. Cái giọng có
mang hơi rượu cùng với nụ cười nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì
phần lớn khách đến đây đều là thân hữu.
Chúng tôi, những buổi phùng
trường tác hí là vào khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng. Bạn
bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế nào thì chủ quán biết
rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi
lên sân khấu mà ngâm "Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót về
đâu". Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh Nam thì Cô
Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu
đây ông? Có bữa Râu Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít
khi lắm). Hát tiếng Tây "Un jour si tu m'abandonnes" (Ngày
nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương bỏ luôn phòng trà cùng Vũ
Khắc Khoan, Mai Thảo kéo lên "Quang Minh Đỉnh".
Trong những năm "Đêm
Màu Hồng" tôi thường cố giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao
Thừa là tôi kiếm một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng Thái
Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ trở thành tiếng hát vượt thời
gian. Có lần tôi nhận được cặp bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi
cho. Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ quê hương phủ Quốc
gửi vào.
Những lúc ấy, năm mới sắp sang,
năm cũ sắp hết mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,uống cho
say, uống cho quên uống không không mệt mỏi. Tôi chợt nhớ một câu của Mai
Thảo "Chúng tôi thân với nhau trong một tình thân thiết rất buồn
rầu".
Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình
Chương đâu vào khoảng tháng 5 năm 1975 khi "đứt phim" được chừng hơn
1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định có cả Mai Thảo nữa. Mai
Thảo mang thêm một chai rượu vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và
Thanh Tâm Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.
Rồi Chương và tôi đạp xe ra về
trước. Đạp toát mồ hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường. Chương
ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: "đi
nhé". Tụi tôi xưa nay ít có cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau
một cái là đủ rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước việc đi
cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về. Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã
đi cải tạo về rồi, Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi nhé!
Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương.
Phan Lạc Phúc
Người chuyển
bài - NTH
No comments:
Post a Comment