BA TÔI
Tùy bút
Hồi còn nhỏ mỗi lần nghe Ba ngâm nga hai câu thơ lục bát:
“Con trai nối dõi tổ tông, Con gái nuôi dạy
tốn công, chẳng nhờ.”
tôi cảm thấy tủi thân làm sao. Nhưng một
sự việc xảy ra làm tôi thấm thía tình thương Ba dành cho tôi. Hôm ấy tôi bị
bịnh, sốt thật cao, thời bấy giờ, ở làng quê, phương tiện giao thông khó khăn
nên Ba phải cõng tôi chạy cả cây số để tìm xe đưa tôi đi bệnh
viện. Lúc tỉnh dậy, thấy Ba đang ngủ gục bên giường mà tay vẫn còn
để trên trán tôi, tôi vội vàng gượng ngồi dậy, ôm hôn Ba tới
tấp rồi như không nén được cảm xúc, tôi bật khóc nức nở. Đó là lần đầu tiên tôi
khóc nhiều do cử chỉ và hành động thương yêu con của
Ba. Khi tôi hết bịnh,về nhà, Ba
còn câu được một con cá lóc thiệt bự, nấu cháo cho tôi ăn… Từ đó, mỗi lần nghe
Ba ngâm hai câu thơ ấy tôi không còn buồn tủi nữa và tôi thầm hứa sẽ thương Ba
suốt đời.
Ba sinh ra trong
một gia đình nông dân nghèo, đông con. Học chưa hết bậc tiểu học, ba
đã phải đi chăn trâu mướn cho điền chủ để kiếm miếng ăn. Lớn lên, dáng
vóc Ba không cao to lắm nhưng rất điển trai: trán Ba đã rộng, mũi cao, mày
rậm, tai dài, mắt to, môi mỏng mà Ba còn kể chuyện rất hấp dẫn, thu hút người
nghe…ngần ấy thứ đủ để cho mấy cô thôn nữ mê tít Ba rồi .
Quê Ba ở vùng
Đồng Tháp Mười rất nghèo nàn. Vào mùa nước nổi, đồng ruộng bao la ngập nước
trắng xóa như một tấm thảm bạc, mênh mông trãi dài đến tận chân trời nên đời
sống rất khó khăn. Sau bao suy nghĩ đắn đo
, cuối cùng, năm mười tám tuổi, Ba
bỏ quê, lên Sài Gòn, sống lang bạc giang hồ, rày đây mai đó, làm
đủ thứ việc để kiếm sống. May mắn thay, Ba được một ông chù tiệm
may nhận vào học nghề nhưng sau hai năm ăn ở nhà chủ, Ba chưa thành “thợ may”
mà đã thành “chồng” của cô cháu ông chủ, rồi hai năm sau nữa, Ba lên chức “cha” của hai cô con gái thật xinh đẹp.
Cuộc sống “bốn
không” (không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tương lai) của Ba làm
sao có thể kéo dài bên người vợ trẻ đẹp và hai con nhỏ? Vì thế, Ba đành
phải bỏ Saigon về lại quê nhà. Duyên nợ
ba sinh, Ba Má gặp nhau, phải lòng nhau. Từ một cô con gái rượu của một
thương gia giàu có người Trung Hoa, Má đã rủ bỏ tất cả để cùng Ba về Tây Ninh
chung sống… Má tâm sự cùng tôi rằng Má là một “nạn nhân tình nguyện” của Ba nên
má không hề hối hận vì trong đám trai làng lúc bấy giờ không ai có thể sánh với
Ba.
Thế nhưng, giấc mơ
tình yêu không chỉ toàn màu hồng. Một người tay không chân rồi như Ba mà
lại cưu mang một tiểu thư đài các như Má thì tình yêu ngàn cân đó như treo trên
sợi tóc. Má đã quá cực khổ để cùng Ba chạy lo miếng cơm manh áo nên ốm o gầy
còm đưa đến việc hư thai đầu, đứa thứ hai lại là gái, Ba thất vọng
não nề… Rất may là hai năm sau, má sanh một hoàng tử thật bụ bẫm dễ thương, rồi
hai năm sau nữa, “Công Chúa Nhỏ” tôi ra đời…Những năm kế tiếp, một hoàng tử, ba
cô công chúa và một hoàng tử út nối bước sau lưng tôi làm ba tôi rất hãnh diện,
nhưng tiếc thay đứa em trai kế tôi bị bạo bệnh chết lúc mới lên bảy tuổi.
Bảy anh chị
em chúng tôi lớn lên trong no ấm và trong tình thương yêu vô tận của Ba Má.
Nhưng chiến cuộc nước nhà đổi thay, mới sáu mươi tuổi Má đã mất vì buồn nhớ con trai lớn lâm cảnh tù đày và cũng vì thời buổi khó
khăn, thiếu thốn mọi thứ kể cả thuốc men. Sự ra đi của Má đã gây một cú
sốc nặng trong lòng anh chị em chúng tôi, nhất là Ba. Ai cũng có cảm tưởng như mình bị hụt hẩng chơi vơi
trong cỏi không gian u tịch. Rồi tất cả cũng nguôi ngoai theo thời
gian... Hàng ngày, Ba ra sau vườn chăm sóc cây trái hoặc đùa giỡn với đám cháu
ngoại…
Ba sống đến tám mươi bảy tuổi nhưng cũng chưa
có cháu nội để ẵm bồng. Cảm nhận tình cảnh của ba, tôi ngậm ngùi sửa lại hai câu thơ trên là:
“ Con gái chăm sóc cha già
Con trai chưa vợ khiến ba tủi buồn”…
Tháng
Tư năm 1993
Vkp Công chúa nhỏ
Ngọn
Thái Sơn của Tôi
"Công
cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra."
Ca
dao
Không biết lúc tôi còn nhỏ, cha tôi như thế nào nhưng từ khi tôi có chút trí
khôn, tôi thấy cha mẹ tôi hơi khác với cha mẹ của mấy đứa bạn trong trường và
trong xóm của tôi. Thường thường các bài văn thơ toàn ca tụng
"nghiêm phụ, từ mẫu". Trong gia đình tôi, phải nói ngược lại:
"từ phụ, nghiêm mẫu" mới đúng.
Tôi có phúc hơn một số bạn bè của tôi có cha là chiến sĩ ở chỗ cha tôi là
sĩ quan không quân, không phải đi hành quân xa nhà lâu ngày, nên chúng tôi
gần gũi với ông hằng ngày. Ngày nào không lúc ra đi thì cũng lúc về nhà,
anh em chúng tôi đều được cha tôi ôm hôn y như trong mấy phim Âu Mỹ mà tôi
được xem. Rồi thì chúng tôi bá cổ, đu vai cha tôi. Ông nhấc
từng đứa lên, ôm xoay vòng vòng. Những biểu lộ tình cảm công
khai và ồn ào kiểu này hiếm thấy trong xã hội Việt Nam thời bấy
giờ. Chiều về, lần nào ông cũng có kẹo hay bánh trái cho
chúng tôi. Mẹ tôi thì hay rên rỉ: "Anh ơi, đừng để chúng nó lờn mặt, khó
dạy dỗ lắm." Lần nào cha tôi cũng chỉ có một câu: "Anh biết
rồi. Anh sẽ chừng mực mà." Sau đó thì ông nháy mắt với chúng
tôi, và cha con tôi tạm thời tan hàng. Từ khi tôi vào lớp một, cha tôi là
người thầy dạy vỡ lòng cho tôi tập đọc, tập viết. Ông đã viết nhiều trang
chữ a, b, c... bằng bút chì cho tôi đồ lên để tập viết, từ ngày này qua
ngày khác cho đến khi tôi có thể viết một mình. Bởi vậy cho nên nét chữ
của tôi hao hao giống chữ của cha tôi. Những khi cha tôi trực đêm ở phi
đoàn thì tôi phải học với mẹ. Tôi không thích học với mẹ lắm vì mẹ tôi
rất nghiêm khắc với chúng tôi, nhưng là một cô giáo vui vẻ, dễ mến, dễ thương ở
trường. Sau này lớn lên tôi mới biết sở dĩ mẹ tôi nghiêm khắc với
chúng tôi là vì cha tôi quá dễ dãi. Mẹ tôi phải đóng vai
"nghiêm mẫu" để kềm bớt chúng tôi, không cho đi
quá đà. Chưa bao giờ cha tôi la mắng hay phết vào mông anh em
chúng tôi cả. Những lúc chúng tôi bị mẹ phạt hay bị nghe "giảng luân
lý", cha tôi thường lánh mặt, ra ngoài sân len lén nhìn vào. Chờ
chúng tôi thi hành hình phạt được một lúc, cha tôi vào bắt chúng tôi xin lỗi
mẹ. Lần nào cũng vậy, cha nói nhỏ vơi mẹ một câu là mẹ tôi đành
"tha Tào."*
Buổi tối, sau khi học bài xong là cha kể chuyện đời xưa hoặc những
chuyện vui của các chú, các bác trong phi đòan cho chúng tôi
nghe. Chưa bao giờ cha kể những chuyện buồn, thương, chết chóc mà
cha đối diện hằng ngày cho chúng tôi biết. Sau này lớn lên, tôi
mới hiểu được rằng: vì sinh mạng của cha treo đầu sợi tóc, nên cha
lúc nào cũng giấu kỹ trong lòng chuyện buồn, chuyện chết chóc, chuyện
lo âu... mà sống trọn vui với vợ con. Câu mà cha
thường bỏ nhỏ cho mẹ là: "Em ơi, cho anh sống vui vẻ với con và
em được lúc nào hay lúc ấy."
Một
lần cha bị thương phải nằm Bệnh Viện Cộng Hòa. Mẹ tôi đã khóc sướt
mướt trên đường đến thăm cha, làm chúng tôi cũng khóc theo. Khi thấy
chúng tôi, cha đã cười lớn và nói: "Chỉ bị kiến cắn một phát thôi,
làm gì mà mấy mẹ con khóc dữ vậy?" Mẹ tôi nắm lấy tay cha lặng lẽ rơi
nước mắt. Cha tôi lại là người an ủi mẹ:
- Mạng anh lớn
lắm. Em đừng lo. Tử vi nói anh thọ đến 90 tuổi, giống ba của
anh.
Chúng tôi lại nhào
lên giường, níu áo lôi tay, đòi ông về nhà với chúng
tôi. Mẹ tôi phải ngăn cản chúng tôi sợ đụng đến vết thương
của ông. Khi ra về chúng tôi làm trận làm thượng đòi ông về
chung mới chịu. Cha lại hứa hẹn, chúng tôi mới chịu ra về. Cha
nhìn theo chúng tôi, miệng cười nhưng mắt đỏ
chạch.
Chúng tôi sống hạnh phúc bên cha tôi như thế không được bao lâu. Vào
Tháng Tư năm 1975, cha thường xuyên ở trong phi đoàn, ít về
nhà. Mỗi lần về qua nhà, vẻ mặt ông vô cùng nghiêm trọng,
và vắng đi nụ cười. Ông thường to nhỏ với mẹ. Cả
hai đầy lo âu, sợ hãi. Hàng xóm chúng tôi có những
người chộn rộn việc ra đi. Đi đâu, tôi không biết.
Họ đi mà không mang theo của cải. Họ bỏ lại nhà
cửa, những đồ vật có giá trị như Ti vi, tủ lạnh, bàn ghế... Có
những đứa bạn cùng xóm với tôi, hôm trước còn đi học, đột nhiên sáng hôm
sau vắng mặt, và không thấy chúng nó đi học nữa, nhà cửa đóng im ỉm. Mẹ
tôi cũng thu dọn quần áo cả gia đình vào va-li, và ngóng chờ cha tôi
về. Lần nào ông về, cũng nói ít câu với mẹ rồi tất bật
ra đi.
Rồi một ngày... cha tôi về nhà sớm hơn mọi hôm với dáng mỏi mệt. Cha
không cười. Chúng tôi ôm lấy ông chờ đợi những nụ hôn như ngày nào,
nhưng ông chỉ ôm chúng tôi và chảy nước mắt. Lần đầu tiên tôi thấy cha
tôi khóc. Tôi, lúc đó 7 tuổi rồi, biết có chuyện quan trọng vô cùng
nên ông mới buồn như vậy. Hai em tôi vẫn nũng nịu đòi ông bế và hôn
như mọi ngày. Cha miễn cưỡng làm theo, chợt thấy tôi đứng lặng lẽ một góc
nhìn, ông ôm lấy tôi giọng sũng nước mắt:
- Cục Cưng
của ba lớn rồi. Nếu một mai không có ba ở nhà với các con, con thay ba
giúp đỡ mẹ và chăm sóc em, nghe con.
- Ba đi đâu.
Con không cho ba đi đâu hết.
- Ừ, thì ba cố
gắng ở bên các con.
Thế rồi từ ngày đó
trở đi, trông cha buồn và thiểu não, cha không vào phi đoàn nữa. Các chú,
các bác đồng đội của cha thỉnh thoảng cũng ghé qua nhà. Người nào cũng
mất đi dáng vẻ tươi vui ngày trước. Vào lớp học, tôi bắt đầu nghe
những chữ lạ tai: "nguỵ quân, nguỵ quyền, Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa..." Thầy
cô giáo của tôi ai cũng có vẻ mặt bơ phờ, dáng đi mỏi mệt.
Sau đó
không bao lâu, vào một buổi sáng trước khi tôi và đưá em kế đi
học, cha tôi ôm lấy chúng tôi thật lâu và hôn anh em chúng tôi nhiều lần.
Nước mắt cha thấm ướt áo chúng tôi. Cha tôi khóc. Lần thứ
hai tôi thấy cha tôi khóc. Em tôi ngây thơ hỏi:
- Ba, chúng con
ngoan lắm, sao ba lại buồn?
- Ba biết các con
của ba ngoan lắm. Nghe lời mẹ và chăm học nghe các con. Mẹ sẽ
cho điểm các con. Ai ngoan nhiều ba sẽ cho quà nhiều.
Các em
tôi nhao nhao:
- Chiều nay con ăn
cà-rem.
- Con ăn chôm
chôm.
Tôi nhìn ông và
rơm rớm nước mắt. Ông hỏi tôi:
- Trưởng nam của
ba, ăn gì?
- Con không thích
gì cả. Con chỉ muốn ba vui vẻ thôi.
Ông nhoẻn miệng
cười và nói:
- Ờ... thì ba đang
vui đây nè, vì ba có ba đứa con ngoan và học giỏi.
Thế rồi...
chúng tôi đến trường. Trưa hôm đó, anh em tôi đi học về, quà của
chúng tôi cha đã để sẵn trong tủ lạnh. Chúng tôi chờ ông về để
ăn. Chờ mãi đến chiều... đến tối cũng không thấy. Mẹ tôi nói gạt
chúng tôi là cha phải trực ban đêm. Đêm về, tôi thấy mẹ không ngủ mà
ngồi khóc. Lúc đó, tôi còn nhỏ nhưng cũng linh cảm chuyện gì
quan trọng lắm đang xảy ra cho cha, cho gia đình tôi. Em gái út của
tôi, khóc tỉ tê đòi cha về ngủ với nó. Tiếp theo cả nhà cùng khóc vì nhớ
cha. Chắc cha tôi cũng khóc vì nhớ chúng tôi.
Cha
tôi đi một ngày, hai ngày, ba ngày... rồi một tháng, hai tháng, ba
tháng... một năm, hai năm, ba năm... liên tục không về. Cả nhà chúng
tôi buồn thảm vì thiếu cha. Chúng tôi không còn những tiếng cười dòn tan
ngày trước nữa. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhận được thư của cha.
Mẹ nói cha ở xa lắm, không về được. Lúc đầu, tôi ngạc nhiên vì có lần cha
nói, máy bay của ông có thể bay tới bất cứ nơi nào trong nước dù xa xôi
cách mấy. Tôi thắc mắc sao lần này cha không lấy máy bay lái về với chúng
tôi, nhưng tôi không dám hỏi mẹ, vì mẹ tôi đang buồn. Mỗi lần nhắc tới
cha là mẹ khóc. Lớn lên một chút nữa, tôi biết cha tôi đang
bị ở tù. Cha tôi hiền lành và vui vẻ lắm, tôi chưa thấy ông nặng
lời với ai. Cha tôi phạm tội nặng lắm hay sao mà phải ở
tù? Mẹ tôi vất vả kiếm sống. Đồ đạc trong nhà tôi
lần lượt ra đi. Mỗi một món ra đi là mẹ khóc nhớ cha. Mẹ nhắc
lại kỷ niệm của mẹ và cha gắn bó với những vật đó. Mẹ tôi dù là
"nghiêm mẫu" đi nữa vẫn là đàn bà, và vẫn chảy nước mắt
nhiều lần. Từ ngày vắng cha, mẹ tôi ít nghiêm khắc với chúng
tôi. Khi mẹ viết thư cho cha, mẹ bắt chúng tôi cùng viết thư chung
với mẹ. Thư của cha gởi về, cái nào cũng nói là cha khoẻ
mạnh. Lần nào ông cũng nhắc nhở tôi là anh lớn trong nhà,
phải giúp mẹ mọi việc lớn nhỏ, các em phải nghe lời mẹ và tôi. Cha
khẳng định lúc nào cũng thương nhớ chúng tôi. Nhận được thư
cha, cả nhà vui vẻ vô cùng, vì biết cha còn sống, tuy rằng sống xa chúng tôi
muôn trùng. Nhưng đêm đó, mẹ tôi ôm lá thư vào giường để khóc lẻ loi một
mình.
Lớn thêm một chút nữa, tôi hiểu vì sao cha tôi ở tù và ở tù khổ sở như thế
nào. Tư trang của mẹ tôi bán hết thì tới ti vi, tủ lạnh, tủ thờ, bàn,
ghế... vĩnh biệt chúng tôi, mà cha thì vẫn biền biệt ở núi rừng Trung
du Miền Bắc. Hè về, mẹ đi thăm nuôi cha, tôi phải ở nhà trông nom, cơm
nước cho hai em, và mưu sinh với những tấm vé số. Trước nhà, mẹ tôi
đặt một cái bàn để bán vé số. Tôi và đứa em kế thay phiên nhau bán phụ mẹ
những lúc không ở trường. Tôi nhớ tới câu ca dao mà mẹ tôi đã từng hát ru cho
em tôi ngủ khi còn bé mà đau xót và nhớ thương ông vô cùng:
"Còn cha gót
đỏ như son,
Đến khi cha mất,
gót con đen xì."
Ngày
xưa, có cha bên cạnh, tuy rằng cha phải đối diện với lằn tên mũi đạn hằng ngày,
nhưng chúng tôi chưa từng thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ như thế này.
Cơm tuy không cao lương mỹ vị nhưng đủ ăn mà còn có thịt cá ngon lành, áo
quần chẳng những đủ mặc mà còn mặc đẹp. Không khí gia đình chúng tôi
vui vẻ, đầm ấm. Chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau. Bây giờ chỉ
còn một mình mẹ bên cạnh, tôi cảm thấy hụt hẫng. Bốn mẹ con
tôi thiếu đi một điểm tựa vững chắc trong đời. Có nhiều lúc
tôi thấy cần vô cùng một người cha bên cạnh để được tâm
sự. Nhìn những đứa trẻ khác có cha bên mình tôi thèm
thuồng vô hạn.
Mười năm trôi qua...
Mười năm bị
đày ải trong lao tù, cha tôi được ra về với thân xác còm cõi, gầy đét, đen đúa,
tay chân chai cứng. Ngày xưa, cha tôi đẹp trai và oai phong biết bao
nhiêu. Cha là thần tượng của tôi. Đã có nhiều lần cha hỏi tôi:
- Cục Cưng
của ba, lớn lên làm nghề gì nào?
- Con sẽ lái máy
bay giống ba vậy.
- Lúc đó,
hết chiến tranh rồi. Kiếm nghề khác làm đi, con.
- Không, con chỉ
thích giống ba thôi.
- Ừ, cũng được.
Nhưng phải hơn cha mới là nhà có phúc.
Bây giờ hết
chiến tranh rồi, nhưng tôi không bao giờ được lái máy bay để bảo vệ
vòm trời Tổ Quốc như cha tôi. Tôi đang ngồi bán vé số đây, không biết
tuơng lai rồi ra sao. Trước viễn ảnh tôi bị gọi đi nghĩa
vụ quân sự, và bị đưa đi Campuchia để xâm lăng nước láng
giềng và bỏ thây nới xứ lạ, cha tôi tìm cách đưa tôi cùng vượt biên
với ông. Cha tôi có người cùng quê cần người biết xem hải đồ và định tọa
độ, nên cho cha tôi đi miễn phí. Cha tôi đã nài nĩ chủ ghe thêm tôi và em
trai kế đi cùng. Nhiều lần nằm bờ, núp bụi, lội sình, lội sông, ém bãi...
thất bại hoàn thất bại, lại thêm các trại tị nạn đóng cửa, cha tôi đành bỏ
cuộc, lo đi theo diện H.O. Trong thời gian chờ đợi, cha lo chuyện
kiếm sống, bắt anh em tôi lo việc học hành, bỏ bán vé số. Nhìn dáng cha ốm
yếu, gầy còm đạp chiếc xe cũ kỹ "chạy sô" dạy Anh Văn tại các
tư gia, tôi thật muốn bỏ học để cùng cha mẹ lo cho gia đình. Cha nhịn
ăn, nhịn mặc gom góp tiền "cúng" cho bọn chính quyền điạ
phương để hoãn nghĩa vụ quân sự cho tôi, tôi vô cùng chua xót.
Có những buổi tối về tới nhà, cha uể oải, ngồi vào bàn cơm đạm bạc, tôi đau
lòng. Đã vậy cha còn dạy thêm cho anh em chúng tôi Anh văn.
Tuy thế, tôi chưa thấy cha tôi lớn tiếng hay nặng lời với ai, lúc nào
ông cũng ăn nói hoà nhã, vui vẻ với mọi người.
Rồi cũng tới những ngày chúng tôi sắp rời bỏ quê hương xóm làng,
bỏ người thân và bạn bè để đi Mỹ. Tinh thần chúng tôi
phấn chấn, tuy nhiên mặt mày cha mẹ tôi hiện vẻ u sầu. Quê hương này cha
tôi đã từng đổ máu để bảo vệ mà đành phải bỏ lại ra đi. Còn ông bà
nội tôi nữa. Ông bà tôi già lắm rồi, bỏ lại ông bà cũng là một
quyết định đau lòng của cha tôi. Tôi biết cha tôi đã
chọn tương lai của chúng tôi mà đành đoạn bỏ lại quê hương và cha
mẹ. Cả tháng trước khi đi, cha tôi nhiều lần ngồi hằng giờ và
nhắc kỷ niệm ngày cha còn bé với ông bà nội. Cha tôi là người vui vẻ
lạc quan là vậy mà ngày ra phi trường Tân Sơn Nhất, tôi thấy mắt cha
tôi đỏ hoe.
Ở nước người, cha là cột trụ của gia đình. Lúc đầu, ông
làm hai việc một lúc: một toàn thời gian ở một xưởng điện tử và một bán thời
gian làm vệ sinh cho một clinic cuối tuần, để cho chúng tôi vào trường
học. Mẹ tôi lãnh hàng may gia công. Tôi thương cha vô cùng vì một
phần ông mỏi mệt và không có ngày nghỉ ngơi, một phần vì ngày xưa ông
là một cấp chỉ huy của Phi Đoàn, bây giờ làm nhân viên vệ sinh!
Nhưng, lúc nào cha cũng vui vẻ, không có mặc cảm tự ti. Ông khích lệ
chúng tôi bằng cách hô hào "cha con ta thi đua để cùng
nhau đứng vững vàng trên đôi chân của mình ở xã hội mới
này." Ông thường bảo chúng tôi: "Không có nghề hèn, chỉ có
người hèn. Mình không ăn trộm ăn cắp, mình không bán nước, hại
dân, đục khoét của chung... thì không có gì phải xấu hổ hết. Lương tâm là
ông tòa công minh nhất." Mỗi khi tôi gặp khó khăn, trở ngại trong
việc học việc làm, ông là hướng đạo viên dẫn đường chỉ lối cho tôi
vượt qua, là cổ động viên khích lệ cho tôi vươn lên.
Ngay những ngày tháng vừa đặt chân trên nước Mỹ, anh em
chúng tôi được nhà trường và xã hội Mỹ giang rộng tay đón
nhận, đùm bọc. Chúng tôi vừa học vừa làm để đỡ đần
phần nào cho cha mẹ. Chả bù ngày xưa ở VN, cha con tôi muốn tìm một
việc làm mà không ai mướn. Mẹ tôi bị bắt buộc thôi dạy học khi
nộp đơn đi nước ngoài vì "ôm chân đế quốc, tư tưởng không
vững vàng, không thể dạy học trò yêu nước yêu Xã Hội Chủ
Nghĩa được." Còn mấy anh em tôi bị bà hiệu trưởng Bắc Kỳ
75 buộc thầy cô chủ nhiệm của chúng tôi đánh giá đạo đức trong học bạ
từ hạng tốt xuống trung bình vì "tội" theo cha mẹ "ôm
chân đế quốc." Khi qua Mỹ, tôi vào ngay Đại Học Cộng Đồng và
được hưởng chương trình giúp đỡ cho sinh viên thuộc gia đình có lợi
tức thấp là Financial Aid và Work Study. Hai em tôi vào trung
học. Anh em chúng tôi quyết tâm vượt lên trong xã hội mới này
nên nỗ lực, chuyên cần học hành. Ngay cuối năm học đầu
tiên, hai em chúng tôi nhận được những lời khen ngợi không ngớt
của thầy cô giáo. Có một câu nhận xét và phê bình của người
thầy Mỹ về đứa em học lớp 12 làm chúng tôi
nhớ đời. Đó là câu: "Em... tiến bộ vượt bực.
Gương học tập này đáng để cho cả chính tôi noi theo."
Thầy noi gương trò, nếu trò làm tốt, nếu trò là gương sáng! Một nhận
xét phê phán bình đẳng, trung thực, không bị chi phối bởi chính trị,
bởi lý lịch, bởi cha mẹ làm, con bị ảnh hưởng lây như ở trường
học XHCN VN. Chả trách đất nước người tiến bộ như thế mà ta tuột hậu
là vậy.
Dần dà cuộc sống của gia đình tôi được ổn định. Cha
tôi tìm được một việc khá hơn. Cha khích lệ mẹ đi học lấy bằng
cô giáo nhà trẻ. Có thì giờ rỗi rãnh, cha tôi tìm gặp lại bạn bè cũ, và tham
gia các công việc trong Cộng Đồng như gây quỹ giúp trẻ mồ côi,
thương binh VNCH còn đau khổ ở trong nước, tham gia những cuộc biểu tình đòi
hỏi tự do, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Cha tôi ở bên
này bờ Thái Bình Dương mà trái tim ông để lại bên kia bờ.
Vào những ngày lễ hội, cha thường dẫn anh em chúng tôi cùng tham dự. Cha
tôi mong muốn chúng dù tôi ở quê người vẫn không quên nguồn
cội và ao ước một ngày nào đó, khi cha không còn bên cạnh, chúng
tôi sẽ tiếp tục công việc dang dở của thế hệ ông. Ông thường nói với chúng
tôi thế hệ của ông đã không làm tròn trách nhiệm và bổn phận với quốc gia dân
tôc, đã để đất nước lọt vào tay Cộng Sản khiến dân tộc lầm than, mất những tự
do căn bản của con người, đất nước tụt hậu, mất đất, mất biển mà hàng ngàn
năm nay tổ tiên đã đổ xương máu để bảo vệ. Bây giờ gánh nặng nước
non này để lại cho thế hệ cháu con. Thật là một gánh quá sức
nặng! Bởi thế cho nên bây giờ còn hơi thở ngày nào
thì ông còn phải trả nợ cho nước non dân tộc ngày đó theo khả năng
của ông. Cha tôi đã phấn đấu, kiên cường trong bất kỳ hoàn cảnh
nào. Mỗi khi tôi gặp trắc trở trong đời, cha tôi là tấm gương để
tôi noi theo, ngẩng cao đầu mà tiến bước.
Bây giờ thì ông già yếu lắm rồi, đi phải có gậy chống,
và đầu óc không còn minh mẫn nữa, nhưng cha tôi vẫn là tấm
gương sáng để tôi noi theo, vẫn là cột trụ vững chắc cho tôi
dựa. Ông là ngọn Thái Sơn của anh em chúng tôi. Nhân ngày
Father's Day, tôi viết bài này để vinh danh cha tôi, người cha
trọn đời sống vì đất nước, dân tộc, và gia đình, cũng
để nói lên tình yêu thương vô vàn, lòng tôn kính không cùng của anh em
chúng tôi đối với Cha Tôi.
Trích tập truyện ngắn Ngày Xưa Chưa Xa)
No comments:
Post a Comment