CON CÒN NỢ BA
“Mùa báo hiếu từ phụ”
Ba ơi, sắp đến ngày báo hiếu người cha
rồi! Con nhớ quê hương mình không có ngày lễ báo hiếu từ mẫu “Mother’s Day” hay ngày báo hiếu từ phụ “Father’s Day” như cái xứ con đang tạm
dung đó ba!
Con biết ba sẽ cười hiền lành mà bảo với con rằng:
- Con bé nầy
nhiều chuyện và rườm rà quá đi… Bởi ở xứ mình cha mẹ hàng ngày chạy gạo cho cả
nhà mở con mắt không lên … thì còn có tâm tình gì mà nghĩ đến ngày báo hiếu,
báo ơn con ơi. Công ơn cha mẹ bổn phận làm con không chỉ có ngày đó thôi đâu.
Nhớ lúc đi tu nghiệp ở Mỹ, ba cũng biết ngày lễ báo hiếu từ mẫu hay từ phụ chớ.
Bên dó, tới ngày lễ nếu con cái ở gần thì đưa cha mẹ đi ăn sáng, ăn trưa, ăn
chiều… ở xa thì mua gởi cho cái áo, cái khăn, hay gởi cho mấy chục... Có tiền
thì được một trăm, hay nhiều hơn tùy hoàn cảnh gia đình của họ. Theo ba nghĩ
thì công ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục như núi Thái, như đại dương vô bờ vô tận…
chớ đâu chỉ có mấy ngày đó con…
Ba à, con sẽ vùi đầu vào ngực, ôm chầm lấy vai mà nhỏng
nhẻo nũng nịu với ba:
- Ba ơi, theo
con biết, mỗi năm xứ người có ngày báo hiếu là để gợi nhớ, để hâm nóng, để nhắc
nhở lòng tôn kính, thương yêu, hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Đó cũng còn
tùy thuộc vào tâm tình và hoàn cảnh của mỗi người nữa ba. Còn con thì ba đừng
có lo nghe! Con nhớ thương và kính yêu ba dài dài, đều đều, cho đến ngày lìa bỏ
cõi đời, trong con cũng không hề lạt phai thương kính ba chút nào hết đó ba!
Những hồi ức quay về, Nghĩa chép miệng thở ra! Cô nhìn
những cánh hải âu bay lượn giỡn đùa, cùng tiếng kêu vang vang của chúng trên
trời cao, và những cây mọc trong nước sát mé bờ, có nhánh gie ra ngoài… Trên
cành có tổ chim, mà chim mẹ đang đút từng miếng mồi nhỏ vào miệng lũ chim con…
Cô cảm thấy buồn nao cõi lòng, và thở dài nghĩ ngợi!
Vì
cho đến bây giờ thật sự tôi cũng chưa biết mẹ mình là ai? Có thể mẹ tôi đã qua
đời rồi chăng? Cũng có thể vì hoàn cảnh nào đó bà không nhận con? Có thể, có
thể, và có thể lắm… Bao nhiêu nguyên nhân khiến tôi nghĩ và đặt câu hỏi trong
đầu? Nhưng từ nhỏ đến giờ tôi vẫn không có câu giải đáp! Vì chưa bao giờ tôi
được gặp và biết mặt mẹ mình! Cho đến khi tôi biết đánh vần chữ “Mẹ, Má” khi tôi biết nhận xét, khi tôi
hiểu, khi tôi biết nghĩ suy, và tôi biết tủi thân khi thấy những đứa trẻ tuổi
cỡ mình có mẹ!
Bởi mẹ bỏ Nghĩa cho nội, khi con bà chưa đầy 2 tuổi!
Ngôi nhà cũ trống không của ông bà để lại, là di vật cuối cùng của gia đình
cũng bị giặc tịch thu lấy làm chỗ hội họp cho đám thanh niên trong phường. Họ
bảo đó là nhà của“Ngụy quân” cho nên
bà cháu tôi bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó, đương nhiên có tên trong danh
sách phải đi kinh tế mới! Trong khi cha tôi còn bị họ nhốt trong tù cải tạo.
Bà nội già cả mà đùm túm cháu lang thang sống hẩm hiu
lây lất bữa khoai, bữa đậu ở xó chợ, gầm cầu! Vì bà cháu tôi giờ đây không còn nhà
nữa, và vì già yếu nên bịnh tật liên miên nữa… Cho đến ngày giặc thả ba tôi về,
ông bị bịnh phù thủng trầm kha không lao dịch nổi.
Vì thế chúng mới cho về vì lý do đơn giản là: ông ở
trong tù chỉ tốn kém, chớ không có lợi lộc chi cả. Và nếu nhốt ông bị chết trong
tù, thì chúng sẽ thêm một cái tội với thế nhân nữa là: “Nhốt người vô tội, bịnh hoạn không thuốc men cho đến chết…” Tội
nghiệp ba của tôi, sau bao nhiêu năm bị đày đọa trong tù ngục cải tạo. Thân thể
ông đầy thương tật, yếu đuối, gầy còm như cái xác biết đi! Khi được giặc thả về,
ba của tôi mất tất cả, cái gì cũng không có, chỉ có nhiều thứ bịnh!
Nỗi
đau buồn mất mát đeo dính ba người chúng tôi. Không có ăn thì tiền đâu mà thang
thuốc… Vì bịnh tật, thiếu thốn, khổ đau, và nỗi buồn nối tiếp buồn theo… Ba tôi
như người mất trí, bởi bà nội đột ngột qua đời, sau khi ông thả về chưa đầy ba
tháng!
Đau khổ ngập lòng, uất hận riêng mang, nhiều lần ba tôi
đã ngửa mặt lên trời cao, nghẹn ngào mà than rằng:
- Ông Trời có
bất công không? Hay kiếp trước tôi đã gây nhiều oan khiên cay nghiệt nên bây
giờ nhận lãnh bao nhiêu đau khổ buồn thương lần lượt chụp phủ xuống cha con
tôi! Tội nghiệp con tôi còn nhỏ quá, xin cho tôi nhận lãnh tất cả mọi sự việc
đã vay. Mong Ơn Trên linh thiêng giúp cho cháu có cuộc sống an ổn, cuộc sống
thật sự của kiếp một con người bình thường trên cõi đời nầy…
Không còn lối thoát, ba tôi phải đi xin ăn! Đó là việc
làm duy nhứt để kiếm sống cho hai cha con tôi thôi. Vì khốn khổ chất chồng, và
thương đau khóc mẹ, đôi mắt ông đã bị mù lòa! Tội nghiệp ba tôi sống không bằng
chết! Ông sống trong tăm tối không được ánh sáng mặt trời chiếu rọi, cùng nỗi
đau đớn xâu xé, và xấu hổ ngửa tay xin tiền, mong nhờ vào từ tâm của thế nhân! Tuy
đôi mắt bị mù lòa, nhưng tâm hồn ba tôi trong sáng như nhật nguyệt. Ông thường
dạy dỗ và nhắc nhở cho tôi biết ai là bạn, ai là kẻ thù… Ông cũng không vì bịnh
tật và hoàn cảnh hiện tại của mình mà thất chí, rồi làm những chuyện không nên,
hay nói năng xàm xỡ với những người chung quanh... Ông luôn giữ câu của người
xưa: “Lành cho sạch/ Rách cho thơm”
và luôn lấy đức báo oán, trước những cảnh trái ngang của đời ông.
Ba tôi đi xin ăn từ sáng sớm tới chiều tối mới về.
Nhưng không bao giờ ông cho tôi đi theo. Tôi được ba gởi trong chùa để sư cụ
sai vặt, và dạy cho biết chữ. Nhớ lại ngày nào, sư cụ cũng thấy cha con tôi
hàng ngày gội nắng, dầm mưa lang thang đi qua chùa. Sư thương tình gọi lại hỏi
thăm và cho cho cha con tôi tá túc ở mé hiên sau của chùa. Với trí hiểu biết
non nớt của mình, tôi không biết ba tôi đang nghĩ suy gì? Nhưng tôi biết chắc
chắn một điều: “Ý chí mãnh liệt để ông sinh tồn vì không muốn con mình côi cút,
bơ vơ…” Tôi không sao quên, đó là ngôi chùa nghèo nằm sát bên bờ sông Bảo Định
(Thành phố Mỹ Tho) nước rồng, nước lớn lửng lờ xuôi chảy. Những ngày gió lạnh
mưa chan đi xin về đến chỗ ở, có khi ba tôi bị lạnh cóng cả người… Tôi la cầu
cứu, sư nấu nước gừng nóng cho uống, sư châm cứu, cho đốt củi lửa hơ, và xức
dầu nắn bóp để ba tôi giãn gân cốt, và từ từ khỏe lại…
“Hoàng thiên bất
phụ hảo tâm nhân” Tôi vẫn nhớ chiều hôm đó,
cha con tôi vui mừng và hết sức ngạc nhiên. Bởi có ông khách qua đường dừng lại
cho ba tôi một số tiền lớn! Một số tiền rất lớn với một người mù đi xin ăn bữa
đói bữa no… Vị thần độ mạng của cha con tôi, chính là một đồng đội cộng sự với
ba ngày xưa. Giờ ông là một ngoại kiều về thăm quê hương bất ngờ gặp lại… Kể từ
sau đó, ba tôi không còn đi xin ăn nữa, và gánh nặng xót xa trong lòng ba có
phần nào được nhẹ đi.
Cứ mỗi sáng sớm, khi vầng thái dương còn e ấp ở phương
đông, chim chốc gọi đàn bay đi tìm mồi… Thành phố Mỹ Tho rộn tiếng còi, tiếng
động cơ xe cộ, tiếng nguời bán hàng, tiếng trẻ con cười nói trên đường đến
trường… Thấy chúng ôm tập sách, mặc áo quần lành lẽ… tâm hồn tôi se thắt, với
những ước mơ thầm kín nở lớn trong long...
Mỗi ngày như mọi ngày, tôi dắt ba ra ngã tư Giếng Nước,
ở đầu đường có nhiều người qua lại. Giúp ông treo tấm ni-long che nắng che mưa
để ngồi bán vé số, chiều tối tôi mới đến dắt ba về. Cha con tôi đi giữa thành
phố lên đèn, qua những ngôi biệt thự đồ sộ nguy nga tráng lệ, qua những nhà
hàng, khách sạn cao ngất trời của bọn tư bản đỏ… Chúng đang phè phỡn vui cười,
sống sa hoa trong đau khổ của nhân dân nghèo khổ...
Khi vui, ba thường kể cho con gái mình nghe những
chuyện ngày xưa lúc còn là lính chiến… Ba kể trong say sưa, với niềm tin lẫn
niềm xúc động nghẹn ngào, và niềm hy vọng thầm kín… Dần dà ba tôi đã lấy lại
mức sống bình thường trong tâm hồn, và thỉnh thoảng tôi còn bắt gặp niềm vui
trong giọng nói, hoặc nụ cười nhẹ trên môi ông.
Ngày đó, nắng Sài Gòn đẹp lắm! Phố
phường rực rỡ vàng màu cờ và sắc áo lính. Những người lính chiến trên Bốn Vùng
Chiến Thuật đại diện các quân binh chủng, từ các chiến trường trở về dự trong
ngày Đại lễ.
Ngồi tán dóc với mấy bà trong xóm, bà Tám y tá (chích
thuốc theo toa bác sĩ) lên tiếng trước:
- Mấy chị biết
con bà Hai bán bánh bò, bánh da lợn ngoài chợ, là cậu Nhân chớ? Tôi thấy cậu
mặc bộ đồ lính Thủy Quân Lục Chiến, cùng một số quân nhân đại diện đơn vị về
diễn hành “Ngày Quân lực 19 tháng 6”
Ôi trông cậu ấy đẹp trai thì thôi, và thật oai phong quá chừng chừng đi!
Bà Tư bán gạo, góp chuyện:
- Thế cho nên, sau mùa Quân lực đó, khi thấy
bóng dáng thấp thoáng chàng về phép, thì các em trong xóm lượn qua lượn lại
nườm nượp hà! Họ mong coi có được lọt vào giếng mắt xanh của chàng, để làm
người yêu lính chiến miền xa không?
Chị Tám Dung thợ uốn tóc mở to mắt ngạc nhiên, lên
tiếng:
- Mấy chị nói
“chơi hay nói giỡn”, bộ có vậy thiệt hả, sao tôi không biết vậy cà?
Chị Út Nga vợ ông Sáu Hiến, tài xế xe đò đường Long An,
Sài Gòn. Chị là phụ nữ trẻ nhất trong nhóm đang bàn chuyện thiên hạ sự. Tánh
tình chị trẻ trung và hay nói tiếu. Ngồi kế bà Tư chị cười khè khè chêm vào
những lời lẽ vui nhộn… Tiếng cười chưa dứt, thì chị gống gân cổ trỗi giọng:
- Có chớ, sao không thật! Mấy bà nghĩ xem: “Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi/ Ngày
mai tôi đã đã đi xa rồi… Giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu/ Trở về là khi
nước non vui bình yên…” Rồi chị bắc qua bài khác, hát câu đầu nầy nhảy qua
câu đầu kia: “Đừng chê anh lính đám cưới
nhà binh em ơi/ Em sẽ là cô dâu đẹp tuyệt vời …/ Đám cưới bọn ta tưng bừng biết
mấy…/… Tám xe lội nước theo sau/ Chín xe đại bác đi đầu… Cưới em nhỏ lắm em ơi/
cưới em mời mấy trăm người… Có ai bằng đôi ta đâu…” Mèn ơi, mấy em nghe đến
đó quýnh đít thiếu điều năn nỉ ỉ ôi, xin được sửa túi nâng khăn cho chàng ta là
đàng khác…
Coi bộ chưa đã, chị hứng chí lớn tiếng:
- Nhưng“Sức mấy! Bỏ qua đi tám...” Bây giờ thì
hai bông mai vàng trên ve áo cậu Nhân, đã làm các em cho mình là kiều nữ trong
xóm nín khe… Bởi lúc chàng còn đi học, các nàng chê là thằng con bà bán bánh
nghèo mạt rệp… Chê cho đã chớ có biết đâu anh chàng lính chiến Nhân “nhà nghèo, nhưng học giỏi, và đẹp giai”
giờ anh ta tảng lờ làm ngơ các cô nàng trong xóm… Khiến các em vừa tức vừa tiếc
hùi hụi, bởi ngày xưa lỡ dại chê nhằm người ta... đó mà!
Các bà phá lên cười rộ vui vẻ rồi trở về nhà ai phận
nấy. Họ là những người phụ nữ lam lũ ở xóm nghèo, bình dân, vui vẻ, tốt bụng
giúp đỡ chòm xóm khi ai đau bịnh, tối lửa tắt đèn… Họ hay chọc ghẹo đối phương
nhưng để vui cười chung, rồi qua đi chớ không nói xấu, nói hành nói tỏi, hay có
ác ý với ai…
Cho đến một ngày kia, chàng Nhân dắt về giới thiệu với
mẹ, cô Hồng Thủy làm ở sở Mỹ nơi chàng thường theo mấy người bạn ngoại quốc ghé
mua hàng “PX” (cửa hàng của quân đội đồng minh, không có thuế) Bà Hai má Nhân
là người mẹ dễ dãi, thương yêu và luôn chiều chuộng con. Bà nghĩ giờ con bà
cũng đã lớn rồi, có thương cô nào thì bà cưới cô ấy cho anh.
Thế là đám cưới nhà binh được tổ chức đơn sơ nhưng đầy
đủ lục lễ cho con mình. Dù là cảnh nhà mẹ góa con côi, nhưng bà Hai cũng đi đủ
lễ, chớ không nói đơn sơ mà giảm quà lễ để thiên hạ cười chê mẹ con bà.
Sau ngày cưới, Hồng Thủy về sống với mẹ chồng. Còn Nhân
thì luôn bôn ba ngoài chiến trận, đôi ba tháng mới về thăm gia đình một lần.
Khi dâu sanh đứa con gái, bà nội đặt cho tên Nghĩa (Nguyễn Thị Nhân Nghĩa) con
của ông Nguyễn Vĩnh Nhân và bà Trương Hồng Thủy…
Bà Hai nghỉ buôn bán, vui mừng sung sướng ở nhà trông
coi tâm can bửu bối, là đứa cháu nội bé nhỏ của bà đó đa! Bà để cho con mình
yên lòng ngoài chiến tuyến, và con dâu đi làm! Thuở đó, ở góc nhỏ của phương
trời miền Nam tự do, có gia đình bà Hai, không giàu sang nhung lụa, nhưng ấm êm
hạnh phúc dâng đầy.
Rồi thời thế đổi thay, “Ngày 30 tháng 4 năm 1975”
thì giặc phương Bắc ào át tràn vào cưỡng chíếm miền Nam. Gia đình bà Hai tan
nát, Nhân bị giặc bắt cầm tù trong cải tạo. Hồng Thủy ra buôn bán hàng ở chợ
trời, nhưng không bao lâu vợ anh đi luôn không về nữa! Bà Hai già yếu phải đi
bươi rác, lượm lon… khổ cực biết chừng nào để chắt chiu nuôi cháu, và bám víu
cuộc sống nghèo nàn chờ ngày con trai trở về…
(Đó là những gì
Nghĩa nghe bà nội kể lại, và cô hiểu biết suy xét theo thời gian tuổi lớn khôn
dần…)
Bà
chủ tiệm nước Cao Thăng ở chợ thành Mỹ Tho, thường đi chùa làm việc từ thiện…
Qua lời sư, bà biết được tình cảnh cha con tôi. Nên khi sắp sửa trốn chạy khỏi
nước Cộng sản nầy… bà cho hai cha con tôi một chỗ ngồi ở dưới tàu chở mấy trăm
người vượt biên.
“Một chỗ ngồi nhỏ
xíu dưới hầm tàu, nhưng to lớn vô cùng, to lớn như một thế giới cho những kẻ đi
tìm tự do! Và đó đã thể hiện một tấm lòng thương người, một tấm lòng Bồ Tát bao
la như đại dương của bà chủ tiệm Cao Thăng ( chủ tàu vượt biên…) đối với cha
con chúng tôi”
Lúc đầu bà chủ tàu chỉ cho một người đi. Nhân nhường
cho con gái đi, còn ông thì ở lại!
Nghĩa khóc sướt mướt vùi đầu vào ngực ba bệu bạo:
- Con không đi,
con không đi đâu! Con không thể xa ba… Chết sống chúng ta có nhau ba ơi…
Cặp mắt sâu hõm hàng ngày như hai cái hố nhỏ của ba tôi
càng sâu thăm thẳm hơn! Mặt đanh lại, ông lạnh lùng bảo tôi:
- Nghĩa, hãy trả
lời ba: “Con có thương, và muốn trả hiếu cho ba không?”
Giọng sũng nước mắt:
- Dạ có, dạ có…
trên cõi đời nầy người con kính yêu nhứt là bà nội và ba… Ba chết con sẽ chết
theo, ba ở đâu con sẽ ở đó… Xin ba đừng bắt con phải xa ba… Cho dù nơi con sắp
đến giàu sang, nhung lụa, hay chốn Bồng lai tiên giới cũng vậy, nếu không có ba
con sẽ không đi đâu ba ơi…
Nhân ôm chầm lấy đầu con mình, vuốt
tóc nghẹn lời thổn thức:
-
Ba cũng không muốn xa con gái ba, nhưng vì tương lai của con… Qua bên đó
may ra con còn gặp được tấm lòng nhân của người khác xứ, sẽ được đi học, và
tiến thân… Con ở lại là gánh nặng cho ba, vì ba không lo cho con được! Dù muốn
lo nhưng tình cảnh ba mù lòa, lại là một người thất bại bị kẻ thù trù dập cố
tình hủy diệt thì làm sao lo… Ở đây chúng ta ăn không no, lạnh không áo, vô gia
cư, không nghề nghiệp, thì tương lai của con sẽ về đâu? Và con còn chuyện quan
trọng phải thay ba đang làm dang dở… Con ơi, trả hiếu cho ba, thì con hãy nghe
lời ba! Nghe lời ba tức là đã trả hiếu cho ba rồi đó con…
Tôi ôm chặc lấy ba vừa khóc vừa trả lời:
- Dạ con nghe
ba… Con sẽ quyết làm những gì ba muốn, ba dặn dò… Con nghe ba, con nghe ba! Con
thương ba lắm ba ơi!
Trong
cuộc đời bé nhỏ của tôi, chưa bao giờ tôi sung sướng bằng! Dù sau nầy ngày tôi
ra trường Y khoa, nhận bằng bác sĩ ở Mỹ, cũng không bằng! Tôi vẫn nhớ hoài, nhớ
suốt đời kiếp nầy để không bao giờ quên ơn người, ơn đời.
Sáng hôm đó trời trong, mây tạnh và nắng hồng rạng rỡ
chiếu lung linh trên cành cây so đũa. Lác đác trên những cành ẻo lả, bông so
đũa trắng như mây trời và điểm những trái dài xanh như ngọc, mong manh treo tòn
ten trên cành ở hiên sau chùa. Tôi ngồi ôm bọc áo quần cũ vá chằng vá chịt của
cha con tôi. Nhưng lòng tôi ngập tràn hạnh phúc… cho dù trước mắt là hầm chông,
là bẫy mìn… tôi vẫn thản nhiên tiến bước, vì có ba đi bên cạnh cuộc đời với
tôi! Mặc dù ba tôi là người tàn phế, đang ngồi đó, trầm ngâm chẳng nói lời nào,
trong đôi mắt sâu thẩm không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng trên khuôn mặt
hằn nét thống khổ, kiên cường, bất khuất đó đã cho tôi sức sống, niềm tin và niềm
hy vọng mảnh liệt vô biên!
Trong đoàn người ngồi chờ xuống tàu lào xào, ồn ào lúc
to lúc nhỏ, mặc dù người dẫn đường đã nhiều lần nhắc nhở giữ yên lặng… Tôi nhớ
rất rõ, mấy hôm trước khi phải theo đoàn người vượt biên. Tôi buồn rầu vì phải
sắp xa người cha tật nguyền bịnh hoạn của mình. Ngồi bẹp dưới góc cây trắc bá
diệp ngoài sân chùa, nghe sư tụng kinh có ca có kệ, khi lòng đang ngổn ngang
trăm mối đau buồn, khiến tôi càng thêm sầu thúi ruột! Ngồi dựa gốc câythút thít
khóc một mình, tôi lơ đãng đưa mắt nhìn trời xanh mây trắng, nhưng trong tâm tư
tôi trời như đang tối sầm, tưởng chừng như mây khói đèn đang kín trên cao… Và
tôi cũng nghĩ dại, mong trời sập xuống chết hết cho rồi!
Từ trong Chánh điện bước ra, dáng sư cao gầy. Mặt sư
lúc nào cũng trang nghiêm, trầm tĩnh. Thấy tôi sư bảo:
- Nghĩa, cha con
đâu, ông đi bán vé số rồi à? Chừng nào ba con về, dắt lên gặp sư nghe… Con đang
khóc đó hả?
Tôi mau lẹ lấy tay quẹt nhanh những giọt nước mắt còn
đọng trên mi:
- Dạ, con khóc
vì không muốn xa ba con! Tội nghiệp ông mù lòa, con đi rồi không ai đưa ba con
ra chỗ bán vé số, không ai rót nước, đút cơm khi bịnh hoạn… Con thương ba con
lắm sư cụ ơi…
Nhịn không được, tôi khóc ồ lên! Sư vuốt tóc tôi chép
miệng nhẹ thở dài rồi trở vào chùa… Tiếng cầu kinh hòa cùng tiếng mõ chuông lại
ngân nga, êm êm rền vọng xa đưa… Mùi khói, nhang, trầm hương theo gió nhè nhẹ
thoảng bay…
Chiều đó tôi dắt ba đến gặp sư, như sư đã dặn dò. Tôi
thấy sư đang tỉa nhành chết, lá úa của những cây kiểng trước sân chùa. Sư vẫn
điềm đạm, nét mặt suy tư, và chầm chậm bảo với chúng tôi:
- Nghe thấy hoàn
cảnh của cha con anh, ông chủ Cao Thăng bảo vợ cho cả hai cha con cùng đi luôn
một thể…
Cha con tôi quì xuống lạy sư! Không nói gì, tay lần
chuỗi, mắt u buồn hiền lành, sư từ tốn khẽ bảo:
- Cầu xin Phật
Tổ phù hộ cho cha con anh! Tôi chẳng giúp gì được, có lẽ do lòng thương con của
một người cha như anh, đã làm động lòng người đời và động lòng Trời khiến xui
như vậy… Anh phải luôn ăn hiền ở lành, bởi Ơn Trên không bao giờ phụ kẻ có
lòng… Tôi sẽ cầu an cho cha con anh…
Sư quay qua vuốt tóc tôi:
- Nghĩa, sư biết
con là đứa trẻ ngoan! Qua tới bờ bến tự do con ráng học hành… làm người tốt, để
trả hiếu cho cha con và trả ơn đời…
Mười mấy ngày trên đường vượt tuyến sóng gió biển khơi.
Rồi tàu cũng được cặp một bến ở Nam Dương Quần Đảo. Trên Hành trình vượt biên
của tàu bán chánh thức (Người đi trả chủ tàu bằng vàng. Chủ tàu đóng cho Việt
cộng để được rời nước) mang số “Mỹ Tho 2736” Tàu vượt biên chúng
tôi chết gần cả trăm người vừa già vừa trẻ em, vì sóng gió dập dồn và yếu sức…
“Huyệt mộ người cha
kính yêu của tôi, cũng ở lòng đại dương trong chuyến bôn đào bằng đường biển
nầy!”
Hôm nay cũng trên chuyến tàu ra biển,
tôi theo đoàn y tế thiện nguyện, đi trị bịnh cho những tù nhân trong trại tù Alcatraz,
ở hòn đảo Alcatraz gần San Fransico thuộc tiểu bang California.
Nhìn trời nước bao la, nhìn thành phố San Fransico nhà
cái cao, cái thấp… chập chùng san sát như dính liền nhau. Cả thành phố dưới bầu
trời rạng rỡ nắng mai rực rỡ, và như nằm lững lờ trên mặt nước trong xanh lao
xao sóng bủa chập chùng.
“Ba kính yêu của con ơi, con gái ba giờ đã lớn đang ở trên một nước tự do, ngắm
nhìn trời xanh, in những vầng mây trắng cuồn cuộn nhẹ trôi là đà. Nắng mai
chiếu lung linh, gió mát thổi bồng mái tóc con và là là trên mặt nước biển xanh,
trong vắt thấy cả cá lội nhởn nhơ… Con nhớ ba lắm, con thương ba vô cùng… Con
gái ba không phụ lòng ba, giờ con đã thành tài như ba ước mong… Ngoài những giờ
làm việc ở bịnh viện chuyên khoa về mắt… Thời gian còn lại, con ghi danh hành
nghề trong các đoàn y tế thiện nguyện. Con đã đi Thái Lan, Cam-Bô-Chia, các
nước vùng dân nghèo… cả ở Ép-Phi-Ca, Ai-Rắc nữa đó ba. Nhưng con chưa trở về cố
quốc, vì nơi đó vẫn còn chế độ Cộng sản bất công và đói nghèo, khốn khổ...
Sư cụ giúp chúng ta đã viên tịch… Gia đình ông Cao
Thăng chủ tàu cho cha con mình vượt biên đang ở Canada (bà chủ qua đời từ mấy
năm trước) các con ông đã thành nhân.
Lời dạy dỗ của ba là kim chỉ Nam đã và sẽ làm hành
trình cho con suốt cuộc đời nầy! Ngày xưa ba đi lính vì vì an nguy cho gia đình
và dân tộc. Không kể đến thân mình, ba cùng đồng đội bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải
quê hương đất nước, cho một miền Nam Cộng Hòa Tự Do của chúng ta. Hôm nay con
gái ba làm những gì con có thể làm được như ba dạy bảo là giúp người, giúp đời,
và…
Ba ơi, mặc dù ba nay đã ra người thiên cổ, nhưng con
biết ba lúc nào cũng quanh quẩn bên con, nhắc nhở con, giúp đỡ con gái ba. Con
thấy tủi thân không có ba như các bạn bè. Ai còn cha thì xôn xao mua quà nầy
quà kia cho cha, trong ngày lễ báo hiếu, vinh danh cha…
Thưa ba, mỗi năm ngày báo hiếu từ phụ, lại cận kề ngày
Quân Lực của Việt Nam Cộng Hòa. Con xin gởi ba tấm lòng thành ghi nhớ ơn tiền
nhân, nhớ ơn ba trong ngày báo hiếu từ phụ.
Ba đã cho con dáng dấp hình hài lành lặn nầy. Ba cho
con tâm hồn tươi vui, khỏe mạnh nầy. Ba đã cho con tất cả, tất cả những gì con
hiện có… Con đã làm những việc thiện mà ba dặn dò chỉ dạy…
Nhưng con vẫn còn nợ ba! Trước khi lìa đời, ba đã trăn
trối: “...Trước khi qua đời ba còn nhắc
nhở/ …Hoàn cảnh nào cũng phải giữ sắt son/ Cha ấu lo nhân nghĩa sẽ không còn/ Trên
đất nước mấy nghìn năm Văn Hiến…” Thưa ba, chúng con những người trẻ lưu
vong sẽ hoàn tất trong ngày không xa… sẽ dong ruỗi con đường ba đi còn dang
dở…” Ba ơi “Con còn nợ ba”!
Trong tuyển tập truyện ngắn“Xứ Lạ Tình Quê”
DƯ
THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5622
Email:
dtdbuon@hotmail.com
No comments:
Post a Comment