Một Cành Mai
“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ðêm qua sân trước một cành mai”
Thiền sư
Mãn Giác
Gởi Huỳnh
Hữu Tuệ, Huỳnh Hữu Ủy để nhớ một thời niên thiếu.
Người chị
con ông bác tôi, giống như nhiều người Huế khác, được đặt tên là Mai, Diệu Mai.
Ðó là sự kết hợp lâu dài giữa Tam giáo đồng nguyên đấy.
Người
Việt ta, cũng giống như người Tàu thường lấy tên hoa, trái đặt tên cho con gái.
Mai, Lan, Cúc, Trúc, Ðào, Lê, Mận, Bưởi v.v…
Hơi quê
một chút thì Lựu, Bưởi, Cam, Chanh còn văn minh thị thành thì Mai, Lan, Cúc,
Trúc… với một tên đôi, thông thường nhất là một chữ Diệu ở trước: Diệu Lan,
Diệu Cúc, Diệu Ngọc, thậm chí cả Diệu Trà, Diệu Lê nhưng không mấy khi có Diệu
Buởi, Diệu Chanh. Cũng có thể là chữ Diệu với tên một con chim nào đó; loài
chim đẹp và hót hay, như Diệu Quyên (chim Quyên) là vợ ông nhạc sĩ Trúc Hồ, hay
Diệu Oanh, Diệu Yến; không thể có Diệu Quạ, Diệu Cú hay Diệu Ác-là, Chèo bẻo.
Mấy con chim nầy vừa xấu vừa xui, người ta không lấy nó mà đặt tên cho con gái
bao giờ.
Không khí
Phật Giáo ở Huế ảnh hưởng đến cách người ta đặt tên cho con gái. Ngay
trong thành phố và cả một vùng phía tây nam Huế đồi núi chập chùng, đầy những
chùa là chùa: Chùa Trà Am, chùa Tường Vân, chùa Từ Hiếu. Chùa Viên Thông xa tít
trong núi, thậm chí cả chùa Thiên Thai, – đã đi tu còn muốn theo hai chàng Lưu
Nguyễn đi tìm tiên nữ hay chăng?
Chùa lớn
nhất trong thành phố là chùa Diệu Ðế – từ “Tứ Diệu Ðế” trong kinh Phật – Vua
quan, các hoàng tử trai tráng mạnh khỏe thì ưa đi chùa xa, vừa đi chùa vừa
ngoạn cảnh. Các bà hoàng, công chúa, liễu yếu đào tơ thì đi chùa Diệu Ðế cho
gần gũi, khỏi qua đò, qua sông, đường sá xa xôi cách trở. Vậy chắc là từ “Tứ
Diệu Đế” trong kinh Phật, từ chùa Diệu Ðế mà lắm bà, cô có tên với chữ Diệu ở
trước. Phật, Nho và cả Lão nữa đấy, đều kết hợp chặt chẽ trong tên của họ: Diệu
Lan, Diệu Trúc, Diệu Mai…
Bà chị
tôi là Diệu Mai.
Ba chị
Mai, ông bác tôi, là người thất chí. Nghe nói hồi trẻ ông học giỏi lắm. Giỏi
như thế nào thì tôi không rõ. Có thể đại khái như chữ Nho thì ông cũng rành,
chẳng riêng gì Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám mà cả Tứ Thư Ngũ Kinh, Mặc Tử,
Hàn Phi tử, Lão Trang. Về văn nôm, bí câu nào, hỏi ông, ông giảng làu làu. Hôm
tôi bí câu “tiếng buông xé lụa” trong “Tỳ Bà Hành”, tìm trong “Tầm Nguyên Tự
Điển” của ông Bửu Kế không thấy, bèn hỏi ông. Ông giảng một thôi một hồi về câu
chuyện vua U Vương nhà Châu mê Bao Tự đến nỗi mất nước, lấy chuyện xài phí xé
lụa cho Bao Tự vui, đốt lửa trên Phong Hỏa Đài cho Bao Tự cười v.v…
Ra về,
tôi mới sực nhớ một điều quên hỏi ông. Các ông vua ngày xưa thường mê gái. Tề
Tuyên vương đấy, ông vua mê gái nỗi tiếng, sách sử còn ghi, đến nỗi ngày sau,
hễ ai mê gái thì người ta gọi là mắc “bệnh Tề Tuyên” – (“Bệnh Tề Tuyên
đã nổi lên đùng đùng”. Cung Oán Ngâm Khúc – Ôn Như Hầu). Bệnh mê gái là
bệnh u mê. Vậy thì chữ U Vương có mang nghĩa u mê hay không? Trong chữ Nho, chữ
U cũng có nghĩa là tối – u mê tối dạ mới mê gái – u u minh minh. Rừng U-minh ở
Cà mâu cũng có nghĩa đó vậy.
Chữ Tây,
ông bác tôi cũng nói làu làu, “nói như gió”. Có nghĩa là “nói nhanh như gió”. Nhanh
như gió thì ai nghe kịp, có thể là gió hiu hiu. “Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ
thương” như chú Ba Hồ Dzếnh làm thơ vậy. Nói hiu hiu như thế, “thả
giọng trầm nhiều nỗi mê man”, thì dễ làm xiêu lòng đàn bà con gái lắm đấy.
Trước 45,
đậu bằng thành chung, người ta làm thông phán, ít ra cũng làm sở xe lửa thì ông
chú tôi làm Công An Liên Bang (Surete Federale), là Công An của Tây, nổi tiếng
độc ác. Tôi không rõ động cơ nào đưa ông vào đây, nhưng sau “Cách mạng tháng
tám” người ta lại thấy ông ngồi ở Ty Công An Việt Minh. Người ta cần cái khả
năng chuyên môn của ông hay ông bí mật hoạt động cho “cách mạng” từ lâu?! Ði
kháng chiến mấy năm, ông về. Ông bị biên chế vì gốc “tạch tạch sè” hay vì ông
có quá trình “theo Tây”?
Về “Vùng
Quốc Gia”, ông xin “hồi ngạch” để lại làm Công An. Ðược ít lâu, ông bị nghỉ
việc vì đã từng làm Công An Việt Minh. Phía này, phía kia, chẳng ai tin ông,
chẳng ai dùng ông. Có lẽ ông cũng là người yêu nước đấy. Ông khoe trước 45, Lê
Duẫn mấy lần bị bắt, được ông giúp đỡ; những người hoạt động cho Ðại Việt, Việt
Quốc đều được ông che chở. Với ông cũng như mọi người, thuở ấy, những người bị
Tây bắt là những người làm “cách mạng” cả, có nghĩa là người “vì dân vì nước”.
Ông giúp đỡ họ vì ông cũng có lòng yêu nước. Ông đi kháng chiến cũng vì yêu
nước. Ông bị loại ra ngoài lề xã hội này vì lòng yêu nước đã bị độc quyền mất
rồi, ông không chen vào đó được.
Chị Diệu
Mai lớn lên trong hoàn cảnh ba chị thất chí như vậy. Dĩ nhiên là chị buồn, chị
đau khổ.
Trước
hiệp định Genève, một hôm cận Tết, tôi đi lang thang trong vườn hoa phía tả
ngạn sông Hương, sát đầu cầu Trường Tiền. Chỗ này là “chợ hoa ngày Tết”. Chợ
Tết, chợ hoa, chợ hoa Tết cũng một nghĩa như vậy thôi. Dọc theo những lối đi
rộng, người ta dựng vội mấy mái tranh mỏng manh, đủ che nắng mà không che nỗi
mưa, vách là tấm phên tre oặt ẹo, cột bằng lạt tre vào mấy cây cột tre mới đứng
vững được. Phía trước, trên mấy hàng kệ xộc xệch, trong những chậu sành cái còn
nguyên, cái sứt mẽ, là những cụm hoa lan lá thon dài óng mượt, cánh hoa màu
vàng màu tím tươi thắm rực rỡ. Hoa nào mà chẳng đẹp! Ðủ loại hoa trái: thủy
tiên, thược dược, đào, mận và cả cúc vàng, cúc bạch, mặc dầu mùa thu qua đã lâu
rồi, và ngày nay, lắm người còn đóng đồn, trấn lũy ngoài biên ải, trên núi cao,
rừng rậm, ngồi trên chòi canh ở “ải xa…” đang “nương chốn hoàng hoa
dặm dài” như trong Chinh Phụ Ngâm của bà Ðoàn vậy.
Tôi không
thích các loại hoa kiểng ở đây. Và có lẽ ở đâu tôi cũng vậy. Tôi ưa cái gì tự
nhiên, không thích cái gì cắt xén, bẻ cong, bẻ ngược. Cây là cây, cây vươn cao,
tỏa rộng là vì tạo hóa sinh nó ra như thế, trong cái thế sinh tồn của Tạo hóa
ban cho chúng; cây không thể là con thú, con rồng, con nghê… mặc dù tôi vẫn
thầm phục sự khéo léo, công phu, kiên trì của người chăm trồng cây kiểng.
Thật vậy,
chúng ta từng thích thú với bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ, và cũng đồng cảm
với Thế Lữ khi ông gởi gắm tâm sự của ông cho con cọp trong cũi sắt:
“Ghét những cảnh không đời
nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dĩ nhiên,
tôi thích mai. Ở đây không có bạch mai, chỉ có hoàng mai. Ở trong Nam mới có
bạch mai mà Tôn Thọ Tường gởi gắm tâm sự ông vào đó:
Cám cảnh
cây mai đứng giữa đèo,
Cách trời
mà chịu cảnh cheo leo.
Ðó là cây
mai ở “đồn Cây Mai” trong Chợ Lớn, đường Hậu Giang. Có người cho rằng nó cũng
không hẳn là mai mà là một loại cây mù u. Tội nghiệp ông Tôn Thọ Tường, tưởng
là cây mai rồi đem tâm sự mà gởi cho cây mù u.
Chỉ có
mấy cây mai được trồng trong những chậu lớn. Chắc phải khó nhọc lắm người ta
mới mang chúng ra được chợ hoa. Ngoài mấy chậu đó ra, còn có mấy hàng đàn bà
nón lá, áo tơi ngồi chồm hỗm xuống đất, tay cầm mấy cành mai nhỏ buộc lại với
nhau, gộc xuống đất, ngọn lên trời, chờ khách đến mua.
Tôi gặp
chị Diệu Mai ở chợ mai đó. Tôi hỏi đùa:
-“Chị là
mai rồi, còn coi mai làm chi?”
-“Coi cho
biết. Có điều chị thấy mai nào cũng không vui. Mai của mấy người đàn bà này là
mai của người nghèo. Bán được tiền rồi về mua gạo, may ra còn dư chút ít mua
vải may vội cho con cái áo tết.
Nghe chị
nói, lòng tôi ngậm ngùi. Biết “mai của người” rồi, tôi không hỏi thêm về “mai
của chị”. Ba chị ấy dang dở một đời như thế, hoàn cảnh của chị không vui, hỏi
làm gì, chạm lòng người ta.
Một lúc,
chị hỏi:
-“Chú có
mai chưa?”
Chú là
ông chú tôi, nơi tôi ăn nhờ ở đậu mấy năm nay để đi học. Dĩ nhiên, chú tôi, bác
tôi là anh em, tuy không phải là anh em ruột.
Chị ấy
biết tính ông chú tôi. Năm nào tết nhà ông cũng phải có hoa, không cần đào cúc
mận gì hết mà chỉ một cành mai. Thế thôi. Năm đầu, mới ở nhà ông, tôi hơi ngạc
nhiên về sự chọn lựa của ông. Tết là phải có hoa, đương nhiên, nhưng đào, cúc,
lan.v.v… hoa nào chẳng được mà phải là mai. Lần hồi tôi mới thấy sự chọn lựa
của ông là hợp lý. Chỉ có đào với mai mới có ý nghĩa đích thực ngày Tết. Nó mới
chính là loại hoa của Tết. Nhưng đào là thú chơi hoa Tết của người Bắc; người
Trung, người Nam thường ít chơi đào, vì khí hậu phía Nam không có cái se lạnh
thích hợp với hoa đào chăng? Người ta chỉ chọn hoa mai cắm Tết. Nhà sang cả
cũng mai, nhà bình dân cũng mai. Mai rất “phổ thông”. Giàu có thì một cành mai
to tổ bự. Cành mai có to mới chứng tỏ được cái giàu, nghèo thì cành mai nhỏ
bằng ngón tay cái, vài chục bông, cắm trong cái lọ sành từ đời ông cố hỉ nào đó
còn sót lại hay cái bình đồng gò từ võ đạn “cà-nông”.
Những
ngày cận Tết, có khi tôi và mấy đứa em con ông chú mệt vì cái thú chơi mai của
ông. Chẳng bao giờ ông mua mai ở chợ hoa. Ông chê không đẹp. Anh em tôi léng
phéng ở đó, có khi còn bị ông mắng:
-“Mấy đứa
bây còn “dỏ” (nhỏ) mà coi hoa cái chi. Trai gái người ta lớn rồi, người ta muốn
lấy vợ lấy chồng, ra chợ hoa để ngó “dau” (nhau). Bây còn con nít.
Anh em
tôi nhìn nhau cười. Quả thật là ông nghi oan. Chúng tôi đi xem hoa là xem hoa
thật. Còn hoa kia – hoa biết nói – thì chúng tôi gọi đùa là hoa giả. Gọi là hoa
giả bởi vì chị Lài, sát cạnh nhà tôi, chị ấy “quá trời” lắm. Vậy mà có ai đến
“coi mặt” xin cưới chị thì chị giả bộ ngây thơ, “rằng em còn bé lắm…”,
khá buồn cười. Hoa thật không biết giả bộ như chị Lài đâu!
Năm
ngoái, một người bà con ở quê nhắn lên nói sẽ cho ông chú tôi một cành mai cắm
tết. Vậy mà mới quá ngày đưa ông táo, ông đã sai anh em chúng tôi về làng lấy
cành mai. Dĩ nhiên ông chú tôi không về được, ông là công chức phe Quốc Gia mà
làng quê tôi thì khá xa, khá quạnh quẽ, “Việt minh nhiều lắm”, làm sao chú tôi
dám về. Chúng tôi thì về được. Vừa là học sinh, vừa là con nít, có bà con ở
làng xác nhận tình trạng chính trị thì Việt Minh không bắt. Vã lại Việt Minh
thì cũng dân trong làng chớ ai vào đó. Trước khi đi, ông chú tôi dặn kỹ càng:
-“Cành
nào thẳng đuột thì đừng lấy. Thằng đuột là không ra mai. Võ có mốc xanh là tốt.
Loại mốc này không làm hại cây nhưng làm cho cành mai lốm đốm, nổi hơn. Từ “bữa
ni” (hôm nay) tới mùng một còn hơn một tuần, đừng lựa cành có bông nở hết, lựa
búp vừa vừa, đầy mà chưa nứt tràng, tới ba mươi mùng một nở là vừa. Ði đường
nhớ tránh gió, đụng mạnh là bông rụng hết. Chặt xong là đem về liền, để lâu mai
mất sức.”
Làng tôi
là một làng cổ, được hình thành đâu hồi thế kỷ thứ 15, đã bốn trăm năm, hồi
chúa Nguyễn Hoàng mới vào Nam dựng nghiệp. Tổ tiên có lẽ là những lưu dân theo
chân chúa vào Nam tìm đất sống. Từ đó đến nay, nhiều gia tộc đã vươn cao, nhiều
dòng họ làm quan to trong triều, tới phụ chính đại thần.
Chú tôi
bảo:
-“Hỏi chú
Búa coi trên lăng họ Trương còn cây mai nào không hay “người ta” đốn hết rồi.
Nếu còn thì chặt cho “bà dược sĩ” một cành. Lựa cành đẹp.”
Làng tôi
là “làng thợ rèn” nên Búa, Ðe là tên thường đặt; có đứa còn bị đặt tên là
“Thụt” nữa, chữ đầu của “thụt bệ” đấy. Bọn con nít hay đùa; hễ có đứa nào làm
cái gì không nên trò thì bị chê là “thằng thụt bệ thợ rèn”. “Bà dược sĩ” là con
gái cụ Án, cụ làm án sát hồi trước năm 1945, bà họ Trương nầy lấy chồng dược
sĩ.
Họ Trương
có nhiều người làm quan to trong triều đình, có người tới “quốc trượng”, có khu
mộ riêng, có trồng mấy gốc mai. “Người ta” là Việt Minh, ghét họ Trương, cho là
phong kiến nên Việt Minh thường phá phách những gì thuộc dòng họ này.
&
Tôi trả
lời chị:
-“Chưa,
có lẽ em phải về làng như năm ngoái.”
Chị Mai
cười:
– Lặn lội
chi cho xa, đạp xe đạp về làng cực lắm. Em là con trai mà cũng ốm yếu lắm,
“mình hạc xương mai.”
Lời chị
Mai làm tôi mắc cở. Con trai chẳng mấy ai ưa ẻo lã, như một cành hoa, xương xóc
như con gái, như “một…cành mai” thì sống với đời thế nào được. “Mai cốt
cách” là câu thơ Nguyễn Du tả chị em Kiều, “Phù dung như diện, liễu như
mi” là câu thơ Lý Bạch ví von sắc đẹp của Dương Quí Phi, không phải tả hình
dạng An Lộc Sơn.
Có khi
hoa mai cũng là cái mốc thời gian:
Thuở đăng
đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày
về, chỉ độ đào bông
Nay đào
đã quyến gió đông
Phù dung
lại nở bên sông bơ thờ
(Chinh
phụ ngâm- ÐTÐ)
Ngày
chàng (chinh phu) ra đi “mai chưa dạn gió” – ý nói mai chưa nở,
xuân chưa tới – Hỏi bao giờ về, chàng hẹn “chỉ độ đào bông” – là khi hoa
anh đào nở. Nay đào đã “quyến gió đông”, là hoa đào đã bay phất phơ
trước gió Xuân rồi – theo kinh dịch mùa Xuân thuộc phương Ðông, Ðông quân, gió
đông là gió mùa xuân – Hoa phù dung đã nở hết –“bên sông bơ thờ” -, mùa
hạ tới rồi mà chưa thấy chàng về. Cũng như đời nay vậy, chàng hẹn “mai mốt
anh về” nhưng chẳng bao giờ anh về.
Cũng hồi
năm ngoái, sau khi tôi mang cành mai về rồi, bà thím tôi ra chợ hoa, mua về một
xe ba gác nào lan, nào tắc, nào mận và cả hoa thủy tiên nữa chứ. Ông chú tôi
không vui lắm – tôi đoán vậy – nhưng ông thông cảm vợ mà không nói ra. Nhà chú
tôi bây giờ giàu có tiếng tăm vậy cũng là nhờ một tay bà buôn bán đảm đang tài
giỏi. Dù sao thì bà cũng cần cho bà con xóm làng biết cái tài của bà một chút
chớ, sao lại chỉ có một cành mai đơn sơ chưng trên tủ chè của ông. Bà mua một
chậu thủy tiên về chưng bên cạnh cành mai và nhắc chú tôi gọt đẽo củ hoa sao
cho nở đúng vào lúc giao thừa. Ông chú tôi ừ hử cho qua bởi tính ông cũng giản
đơn, không thích những thứ lỉnh kỉnh cầu kỳ của thói nhà giàu.
Cũng vì
cái sự giàu đó mà chị Mai mặc cảm, ít khi đến nhà chú tôi. Có vẽ như tôi là
người được chị thông cảm và đôi khi chị bày tỏ vài tình cảm sâu kín của chị bởi
tôi cũng là con nhà nghèo, tha phương cầu học và cũng không ít mặc cảm về sự
nghèo hèn như chị.
Cầm cành
mai, chị nói:
-“Chị
muốn mọi nhà, nhà nào cũng có một cành mai cắm tết.
Rồi chị
nhìn cái áo cũ tôi đang mặc, nói tiếp:
-“Trẻ em
đứa nào cũng có áo mới mặc tết.
Hồi còn
nhỏ, nhỏ lắm, tôi rất thích mai để cắm bình ngày tết. Nhà tôi nghèo, lại mồ côi
cha sớm, chẳng năm nào mẹ tôi có tiền để mua một cành mai, dù nhỏ. Thế rồi có
một năm, sau ngày tết Nguyên Tiêu mấy hôm, đi ngang ngôi nhà lầu ông P.Ch.
Đông, tôi thấy có ông Tây, làm rể ở đây đem quẳng ra đường một cành mai nhỏ.
Nhìn kỹ, thấy còn một bông chưa nở – chỉ một bông mà thôi – tôi bèn lượm về gọt
lại cái gốc, cắm vào bình bông có nước pha với nửa viên aspirine. Mấy hôm sau,
hoa nở, một bông hoa độc nhất còn lại trên cành hoa đã tàn. Vậy mà tôi vui lắm;
một cành hoa mai độc nhất với một bông hoa độc nhất, lần đầu tiên xuất hiện
trong nhà tôi.
Làng tôi,
và cả dòng họ tôi nữa, nhiều gia đình rất quan quyền. Khi còn trẻ, cha tôi lưu
lạc tỉnh xa, rồi cưới vợ sinh con ở đó. Khi tôi lớn lên, trở lại Huế để đi học,
chú tôi thường bắt tôi phải có mặt tại nhà bà con những ngày giỗ kỵ để cúng lạy
ông bà.
Vốn dĩ
tôi đã không sinh đẻ tại Huế, lớn lên mới trở lại đây, thành ra những ngày giỗ
kỵ ấy, khi ngồi vào bàn ăn, mấy bà bác, bà thím, bà chị vừa khoe tài nấu đồ ăn
chay của họ – ăn chay mà cũng đủ món nem, chã, sườn, giò, “lòng trần chưa dứt”-
vừa tỏ lòng thương hại tôi quê mùa, vừa tỏ sự chăm sóc con cháu:
-“Tội
nghiệp nó (tức là tôi) không biết ăn chay đến nơi! Em phải trộn đồ ăn “như ri
nì”, “làm ri nì”!
Sự “chăm
sóc” của họ làm cho tôi tức mà không dám tức, giận mà không dám giận, muốn bỏ
chén xuống mà về mà không dám về.
Sau những
bữa ăn “tủi nhục” như thế, chị Mai bao giờ cũng kiếm tôi, tìm chuyện nói bâng
quơ để an ủi. Và dần dần, chị trở thành “thần tượng” của tôi lúc nào mà tôi
không hay. Chị là người tượng trưng cho lòng xót thương người nghèo khó, lòng
từ bi chị học được ở chùa Diệu Ðế hay từ trong “Diệu” Mai tên chị, tôi không
rõ; nhưng chị là biểu tượng của công bằng, sự bình đẳng giàu nghèo, sang hèn; ở
chị không có ranh giới giữa quan quyền và dân giã, giữa người áo gấm và áo
rách, giữa kẻ đi chân đất và người mang giày.
Tôi đang
ngụp lặn trong những tình cảm cao đẹp đó thì bỗng nghe tin chị về quê và rồi
theo Việt Minh tập kết ra Bắc ngay sau hiệp định Genève 1954. Chị theo Việt
Minh, điều đó tôi không lạ. Ở thời kỳ đó, với tôi, Việt Minh vẫn còn là một cái
gì đẹp đấy, là “độc lập dân tộc”, là “tự do”, là “ấm no hạnh phúc” cho mọi
người, là mỗi nhà đều có một cành mai và trẻ em có áo mới ngày tết.
Tôi lớn
lên ở Miền Nam, dần dần nhờ những kiến thức xã hội, lịch sử và chính trị mà trở
thành người chống Cọng, thậm chí trở thành một “mầm non văn nghệ” trong làng
báo chí chống Cọng ở Huế ngay khi tôi ngỡ ngàng bước chân vào trường đại học.
Tuy vậy, mỗi năm, cứ ngày cận tết, tôi ra chợ hoa bên đầu cầu Trường tiền, vừa
để xem hoa thật, hoa giả, hoa biết nói hay không, bao giờ tôi cũng nhớ tới chị
Mai.
Bấy giờ,
nhờ hòa bình, người dân Huế đã khá giả hơn nhiều, thành ra chợ hoa cũng mở rộng
hơn. Chợ kéo dài lên tới gần Thương Bạc Viện, thêm nhiều loại hoa kiểng, cả
những loài hoa giấy người ta làm một cách vụng về, những hoa ni-lông sản xuất ở
Saigon, Hương Cảng. Hoa ni-lông mười cành giống nhau cả chục, không như mai
thật, mỗi cành một vẻ. Nếu bây giờ chị Mai muốn mỗi nhà có một cành mai thì
điều đó vừa dễ dàng vừa công bằng, cứ phát cho mỗi nhà một cành hoa ni-lông thì
chẳng còn ai so bì nọ kia, cành to cành nhỏ, bông nhiều bông ít. “Cơ khí hiện
đại”, “hiện đại hóa” đấy. Nó làm thui chột tình cảm và tư tưởng nghệ thuật
người ta. Cũng may, mỗi người vẫn còn tên riêng của mình, chưa trở thành những
hàng chữ số đơn điệu, vô duyên.
Khu hoa
Mai bây giờ cũng phong phú hơn nhiều lắm, không những về lượng mà cả về phẩm,
nhiều loại mai trước kia tôi chưa thấy: Mai tứ quí, mai năm cánh, bảy cánh,
thỉnh thoảng có một vài cành mai bạch từ miền Nam xa xôi lạc lõng về đây, vài
cành anh đào nội hóa, thay vì từ xứ Phù Tang sang đây thì nó lại từ Ðà lạt
xuống theo những chuyến bay của hãng Hàng Không. Có điều lạ, sao có nhiều người
thích mai đến thế. Chợ mai bao giờ cũng đông, nhất là mấy cô Ðồng Khánh, áo
trắng, cặp da, trên đường đi học về ghé chợ xem hoa. Cũng giờ đó, nhiều anh
“đón gió” ra chợ hoa, thay vì xem hoa thì lại xem người.
&
Tôi thì
vẫn thơ thẩn một mình mỗi ngày trên chợ hoa, đến khu hoa mai, khó mà không nhớ
tới chị Diệu Mai. Với Cọng sản Hà nội, tôi đã có lập trường chống đối, nhưng
với chị Mai đang lưu lạc đâu đó ngoài Bắc, tôi vẫn thầm thương chị, người đã có
chút tình thông cảm tôi trong cảnh học trò nghèo, người bao giờ cũng mong ước
mọi người được bình đẳng, được no ấm như nhau. Không chừng, có khi tôi vừa thầm
nghĩ tới chị vừa ngưỡng mộ Abraham Lincoln, vĩ nhân của Tự do và Bình đẳng.
Khi tôi
vừa vào trại cải tạo thì chị Mai về Nam. Thay vì về Huế, chị vào thẳng Saigon.
“Thành phố bác”, như chị gọi, là môi trường rộng để chị dễ hoạt động. Chồng chị
là đại tá công an, đủ thế lực che chở chị buôn xe hơi, – cũ, dĩ nhiên – xe
Honda, xe đạp từ Saigon ra Hà nội. Khi đã có cơ nghiệp vững vàng, nhờ “giải
phóng miền Nam” chị thành lập một “hợp tác xã may mặc” – người Việt Nam thì may
nhưng không được mặc, hàng chỉ để “xuất khầu” mà chị là chủ. Hợp tác xã đặt tên
là “Chiến thắng” hay “Thắng lợi”, “Vinh quang” gì đó, y như kiểu Cọng sản sau
khi “chiến thắng miền Nam”. Nhiều người bà con trong họ hiểu chị, gọi mỉa là
“hợp tác xã” Thiên Tường. (1)
Chị ghé
thăm mẹ tôi, và hỏi thăm tôi. Sau khi gở gần mười cuốn lịch, được tha về, rồi
một dịp cận tết nào đó, tôi ghé thăm chị. Dù sao cũng phải một lần ghé thăm,
đáp lại những tình cảm mà chị Mai dành cho tôi thuở xưa. Nhìn nhà chị ở, tôi
đoán chắc chị cũng đã “quen nghề” như bà con bàn tán. Ngôi nhà lầu ba tầng
trong một khu vực hầu hết là biệt thự. Nhà nầy là của một ông đại tá tỉnh
trưởng chế độ cũ. Ông đại tá bị đưa ra Bắc cải tạo, bà vợ ông, theo một đường
giây xuất cảnh chính thức, đã làm giấy bán nhà cho chị Mai với toàn bộ đồ đạc
trong nhà mà không nhận một đồng xu để nhờ chị lo gấp giấy xuất cảnh.
Chị đón
tôi trong phòng khách rộng và sang trọng với nụ cười không khác xưa lắm. Người
chị phương phi đẹp đẻ, như mọi bà mệnh phụ thường thấy ở Huế xưa vậy.
Sau vài
câu xã giao, chị hỏi:
-“Cậu
đang làm gì? Gia đình có khó khăn gì không?”
-“Khó
khăn thì không nhưng làm gì thì chẳng ai cho làm gì?”
-“Chắc
ngày xưa, chế độ cũ, cậu cũng khá giả.”
-“Chị
nghĩ là viên chức, sĩ quan chế độ cũ, tôi cũng như người ta, tham nhũng nhiều
nên giàu có chớ gì. Không phải dzậy đâu! Chị lầm to đấy! “Bơ thừa sữa cặn”, làm
sao mà giàu chị!”
Chị Mai
có vẻ như không giận tôi câu nói mỉa đó, lại nói:
-“Thôi
cậu, hơi đâu mà nghe “người ta” nói ngoài mồm. Tôi đã một thời dại dột.”
-“Ai mà
chẳng dại chị. “Có dại mới nên khôn”. Tố Hữu làm thơ nói vậy mà.
Nhưng ở đời, có những cái dại rất đáng yêu. “Mưa mãi mưa hoài, … tiếc thương
đời trẻ dại”. Chị nhớ không, “Tiếc thương đời trẻ dại” mà. (2)
-“Tôi
chẳng có gì tiếc. Ðời mở mắt mình ra rồi. Cậu thấy không, gia đình tôi là “gia
đình cách mạng”. Nhưng “cách mạng” như thế này thì ai mà chẳng ham.
Tôi chỉ
cành mai trong phòng khách, cười:
-“Hèn chi
nhà chị có cành mai tổ bố này. Hết rồi, mỗi nhà một cành mai. Chị còn nhớ
không?”
-“Có nhớ
cũng chẳng muốn nhớ làm gì, cậu. Ai lo cho mình mà mình lo cho ai. Giả dối hết.
Không ai thương mình bằng mình thương mình. Chị lo thương chị, thương
con chị là điều trước nhất.
-“Thương
con thì lo để đức cho con…”
Chị cướp
ngang lời tôi:
-“Thôi,
đừng phong kiến nữa cậu. Ðức nào cũng không bằng đô.”
Tôi như
bị tạt nước vào mặt, không muốn ngồi lâu nhà chị nữa. Cái gì đã làm tâm hồn chị
ung thối, tan rã? Xã hội Cọng Sản miền Bắc? Chủ nghĩa Mác-Lênin? hay cả hai đã
kết hợp rất nhuần nhuyễn để triệt tiêu một tấm lòng cao thượng?
Tôi biết
thế là hết, hết rồi. Phải chi tôi đừng tới thăm chị. Không tới thăm, một chút
thần tượng … một cành mai chắc vẫn còn lại trong đáy lòng tôi, trong tiềm thức
tuổi thơ của tôi. Tới đây rồi, thần tượng thuở niên thiếu của tôi hoàn toàn sụp
đổ.
Không còn
thần tượng, cuộc đời này thật vô nghĩa, còn ý vị gì nữa để mà sống cơ chứ.
Tôi tới
thăm chị mà như thăm một nấm mồ lạnh lẽo giữa mùa đông giá vậy
hoànglonghải
(1) Tên một cửa hiệu lớn ở An Cựu (Huế). Nói lái là “Thương tiền”
2) Thơ “Mưa chi mưa mãi” của Lưu Trọng Lư.
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment