Học làm con Người Việt Nam của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa
“phong sương mấy độ qua đường phố,
hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”.
hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê”.
Sau 30 năm xa cách, tôi cũng trở về Việt nam với
tâm trạng ấy và ra đi cũng với tâm trạng ấy.
Tôi
không thể nào không thương nhớ quê hương. Nhưng tôi không sợ bị kết án là vong
bản để nói rằng tôi không thể nào hòa nhập trở lại vào cuộc sống ở quê hương.
Sau đúng một tháng đi “xâm nhập thực tế” từ Nam chí Bắc, bằng mọi phương tiện
di chuyển thượng vàng hạ cám, từ máy bay đến taxi, xe đò, xe buýt, xe ôm, xe
xích lô, thuyền bè, tiếp xúc với hầu hết mọi giai cấp xã hội, tôi vẫn chưa thấy
mình “tốt nghiệp” từ trường học làm người Việt nam XHCN. Tôi vẫn cảm thấy lạc
lõng ngay trên chính quê hương của mình.
Suốt
một tháng sống ở quê hương, theo lời ông bà dạy, tôi đã bắt đầu lại bài học vỡ
lòng là “học ăn”. Trong trường XHCN hiện nay, đây là môn khó nuốt nhứt đối với
tôi. Về Việt nam để ăn cho thỏa thích là chuyện có thể hiểu được đối với nhiều
người Việt hải ngoại. Ai mà chẳng thèm các món đặc sản ở quê hương. Nhưng tôi
hoàn toàn thất vọng về khoản này. Hàng ăn ở Việt nam không thiếu. Thật không
ngoa để nói rằng cả nước Việt Nam hiện nay là một “hàng ăn”. Trên vỉa hè và
ngay cả trên đường phố, dọc theo những con lộ ở thôn quê, chỗ nào cũng có tiệm
cà phê và quán ăn. Đó là chưa kể những gánh hàng rong. Đồ ăn, món nhậu và thức
uống được dọn ngay trước mặt mình vào bất cứ lúc nào trong ngày.
Đầu
thập niên 80, mới đến Pháp, tôi thực sự thất vọng và cảm thấy bơ vơ trong xã
hội mới: đi tìm một hàng quán là chuyện trần ai. Giá cả thì lại làm cho những
người tỵ nạn chân ướt chân ráo phải dội ngửa. Đó là chưa kể ngày chúa nhựt: phố
xá đóng cửa im thin thít. Có đói thì cũng đành phải bóp bụng mà kéo lê từng
bước mỏi mệt đến hằng bao cây số may ra mới tìm được một tiệm ăn bình dân.
Đến Ý tôi lại càng bực mình hơn: cứ từ hai giờ trưa
đến bốn giờ chiều, mọi quán sá đều đóng cửa. Mặc cho du khách có réo gọi, người
ta vẫn cứ tỉnh bơ ngủ trưa đã.
Ở
Việt nam XHCN hiện nay thì trái lại, muốn ăn cái gì cũng có, muốn ăn giờ nào
cũng được, muốn ngồi ăn ở đâu cũng chẳng ai cười. Có lần trên một chuyến taxi,
tôi nêu thắc mắc với người tài xế: tại sao ở VN người ta “ăn nhậu” liên tục như
thế? Anh trả lời rằng đa số người Việt nam hiện nay sống rất hiện sinh. Anh giải
thích rằng người Việt nam ăn nhậu xả láng là vì không muốn nghĩ đến ngày mai và
cũng chẳng bao giờ có ngày mai mà nghĩ. Kiếm được đồng nào xài đồng đó. Đó là
chủ trương sống của rất nhiều người Việt nam hiện nay. Không chỉ có những cán
bộ phì nộn, ăn mặc bảnh bao hay các đại gia và giai cấp nhà giàu mới ăn nhậu,
xem ăn nhậu như thủ tục đầu tiên, người dân lao động, những kẻ ăn không ngồi
rồi cũng ăn nhậu và ăn nhậu suốt ngày, suốt đêm.
Sau
một tháng về thăm Việt nam, đứng lên bàn cân, tôi sụt ký thấy rõ vì không muốn
và không dám ăn một cách “thỏa thích” như mọi người. Tôi thực sự cảm thấy ái
ngại mỗi khi bước vào một nhà hàng sang trọng. Giá cả không quá cao nếu so với
Úc và các nước văn minh. Nhưng trong một đất nước mà thu nhập bình quân của một
người lao động phổ thông vẫn còn ở mức dưới 5 Mỹ kim một ngày thì một bữa ăn
trong một nhà hàng giá đến vài chục Mỹ kim, chưa kể tiền bia rượu, thì đây hẳn
là một cách tiêu xài xa xỉ chỉ dành riêng cho giới nhà giàu mới trong xã hội
"ai chết' mặc bây, tiền thầy đầy túi ".
Tôi
không thấy thoải mái để bước vào các nhà hàng sang trọng . Cơm đường cháo chợ
thì ê hề. Nhưng ngặt một nỗi, vì đã lỡ học cái thói vệ sinh của các nước văn
minh, cho nên có thèm nhỏ dãi tôi cũng đành ăn hàm thụ. Trong những ngày đầu, bị
"tào tháo" rượt một lần, tôi tởn tới già. Cùng lắm, muốn ăn món tủ,
nhà tôi đành phải mua rau cỏ về nhà rửa sạch với thuốc rửa rau mà chúng tôi
mang theo từ Úc, rồi đem ra nhà hàng ăn, thay vì ăn rau của họ trước con mắt
khó chịu của người xung quanh. Ngoài ra, xuất xứ của các thứ thịt cá được dọn
ra trong các hàng quán cũng khiến tôi nghi ngại. Những con thú chết vì bệnh...
thay vì đem chôn thi` được xẻ thịt ra bán trong chợ là chuyện có thật được
chính báo chí Việt nam phanh phui. Thịt quay treo lủng lẳng trên đường phố đầy
bụi bậm và ngày này sang ngày khác là chuyện mà tôi thấy trước mắt mỗi khi
xuống đường. Ngay chợ Đồng Xuân, Hanoi, nhà tôi đã vô tình chứng kiến cảnh
người ta xẻ thịt bò ngay trên nền chợ lầy lội nước.
Tựu
trung, các hàng ăn ở Việt nam kinh doanh bằng mọi giá, bất kể các tiêu chuẩn vệ
sinh và chuẩn mực đạo đức. Xét cho cùng, nếu ăn uống là thể hiện của văn hóa
một đất nước, thì điều được gọi là “văn hóa ẩm thực” của Việt nam hiện nay cũng
nói lên sự dối trá và lừa gạt vốn tràn lan trong xã hội. Muốn có chỗ ăn ngon,
sạch, đúng giá, thì chỉ có nước nhờ người quen mách bảo.
Tôi thấy mình chưa thuần thục trong bài “học ăn” ở
Việt nam. Sang đến chuyện “học nói” thì tôi lại càng thấy mình “ngọng” hơn. Cả
nước Việt nam không chỉ là một “hàng ăn” mà còn là một khu triển lãm các khẩu
hiệu. Từ thành thị đến thôn quê, từ các đường phố sang trọng đến các con hẻm
tồi tệ bẩn thỉu, ở bất cứ ngõ ngách nào, du khách cũng có thể đọc được những
khẩu hiệu. Từ việc ca tụng đảng cộng sản Việt Nam quang vinh đến nếp sống văn
minh, xem ra người Việt Nam xã hội chủ nghĩa sống bằng khẩu hiệu hơn với thực
tế. Quả thực, đi đâu tôi cũng thấy “mưa sa trên mầu cờ đỏ” và bơ vơ trong rừng
khẩu hiệu. Lạc lõng hơn nữa khi mở các đài truyền hình chính của Việt nam. Cái
giọng Bắc hoàn toàn khác với giọng Bắc “năm mươi tư” không thể không làm cho
tôi nghe nhức đau lỗ tai. Phải nói thật
sự có một “Nước Bắc” xâm chiếm Miền Nam Việt Nam và áp đặt không chỉ ý thức hệ
mà còn cả văn hóa, ngôn ngữ và giọng nói. Trước 1975, trong miền Nam làm gì có
chiếc xe “ô tô”, “ điện ô tô” hay “xe con” hay làm gì có chuyện “đảm bảo”.
Tôi thấy rõ chuyện “thực dân mới” ấy trên chuyến bay từ Hà nội về Sài Gòn.
Thông thường các cô chiêu đãi viên của các hãng không dân dụng Á châu đều có
một sắc đẹp đủ để đại diện cho đất nước của mình. Nhưng trong chuyến bay của
hãng Jetstar từ Hà nội vào Sài Gòn hôm đó, tôi hoàn toàn thất vọng về cô chiêu
đãi viên trưởng Với “nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai”, nếu cô
được chọn làm chiêu đãi viên trưởng của chuyến bay thì chắc chắn cô chỉ có thể
là “Con Ông Cháu Cha” mà thôi. Tôi lại càng nghĩ rằng tôi không đoán sai điều
đó, bởi vì khi cô mở miệng nói với hành
khách bằng tiếng “Bắc Kỳ Quốc” thì tôi chẳng hiểu gì “sốt”. Đến khi cô “dịch”
sang Anh ngữ thì tôi lại càng “điếc” và không biết cô nói tiếng nước lào !
Nói
như thế không có nghĩa là tôi giỏi và nói tiếng Anh rành đến độ quên tiếng mẹ
đẻ. Thật ra, vấn đề tiếng Việt của tôi ở Việt nam không phải là “nói” cho bằng
là “hiểu” cái lối nói “xa lạ” hiện nay của nhiều người Việt nam. Không kể đến chuyện người ta cho vào bảo
tàng viện hai tiếng “xin lỗi” và “cám ơn”, cái cách ăn nói cộc lốc, thiếu
lịch sự, thiếu lễ độ, thiếu cả văn minh... của người Việt nam XHCN vừa làm cho
tôi đau lỗ tai vừa làm cho tôi đau lòng. Đau lòng thực sự bởi vì cái lễ giáo và nét đẹp của cách nói năng
được nhào nặn từ bao thế hệ đã hầu như hoàn toàn bị xóa bỏ. Tôi rất sợ vào
chợ để mua hàng. Tôi sợ khi phải sờ đến một món hàng và hỏi một câu, mặc dù đã
cố gắng để tỏ ra lịch sự hết sức có thể. Tôi sợ là bởi vì lúc nào mình cũng có
thể được đáp trả bằng một tràng câu nói như chửi tát vào mặt.
Quả
thật, một tháng có lẽ chưa đủ để tôi “học nói” lại trong Việt nam XHCN hiện
nay. Sau chuyện “HỌC ĂN, HỌC NÓI”, tôi lướt qua chuyện “HỌC GÓI HỌC MỞ” để đi
thẳng vào một chuyện tối quan trọng trong những ngày sống ở Việt nam: đó là
chuyện “HỌC ĐI”.
Tôi còn nhớ: cách đây vài năm, nhân một cuộc họp
APEC được tổ chức tại Hà nội, một nữ phóng viên Phi Luật Tân tháp tùng phái
đoàn chính phủ Phi, đã ghi lại hai nhận xét mà cô cho là tâm đắc nhứt trong
chuyến thăm Việt nam:
1. Con trai Việt nam không đẹp,
2. Ai muốn tự tử cứ “đi bộ” băng qua các đường phố
ở Việt Nam.
Cả hai điều, tôi đều thấy đúng cả.
Tuần
cuối cùng ở Sài Gòn, không biết làm gì, tôi di xe buýt đến Thủ Đức, Biên Hòa.
Tại đây tôi được dịp nhìn thấy Làng Đại Học của Miền Nam Việt nam. Có cả một
trường đại học quốc tế (International University) mà tôi không biết của nước
nào. Nhưng phải nói là nhận xét của cô phóng viên người Phi thực là chính xác:
trong đám nam sinh viên, rường cột và tương lai của đất nước, chen chúc trên xe
buýt hay đi bộ đến trường, tôi chỉ nhìn thấy những tấm thân ốm o, còm cõi, nhỏ
bé và những gương mặt thiếu sức sống và sự tỏa sáng. ( Ôi! Thật là nhục nhã cho
các đấng Sinh viên Việt Nam !!! )
Nhưng
trở lại với bài “học đi” mà tôi đã cố gắng học trong những ngày lê bước ở Việt
nam. Phải nói ngay rằng người Việt nam XHCN hiện nay rất ít đi bộ. Không cần
phải nhìn cách tôi ăn mặc hay nghe tôi nói chuyện mà chỉ cần thấy tôi đi bộ hay
băng qua đường là biết rõ tôi không phải là người Việt nam XHCN. Ở Việt nam, cứ
bước ra khỏi nhà thì hầu như ai cũng cỡi xe gắn máy hay ít nhứt trèo lên xe ôm.
Tôi không biết mình có quá chủ quan không khi nói rằng có lẽ không nơi nào trên
thế giới có nhiều xe gắn máy cho bằng Việt nam, không có nơi nào trên thế giới
bị ô nhiễm cho bằng các đường phố ở Việt nam và dĩ nhiên cũng không có nơi nào
trên thế giới “nguy hiểm” cho khách bộ hành cho bằng VN. Quả thật, nếu muốn tự
tử một cách dễ dàng, chẳng cần phải nhảy cầu, trầm mình xuống sông, rơi từ cao
ốc, uống thuốc ngủ hay thắt cổ: chỉ cần hiên ngang băng qua đường ở VN cũng đủ
để đi thẳng vào thế giới khác ngay.
Ở
Việt nam luật đi đường nào cũng có, nhưng chẳng ai tuân giữ và khách bộ hành là
hạng người rẻ nhứt trong xã hội. Ở Việt nam, công an giao thông đứng đầy đường,
nhưng không phải để hướng dẫn về giao thông mà chỉ để được người lái xe “hối
lộ” hay “mãi lộ” theo đúng nghĩa. Hôm giỗ cụ Nguyễn Trung Trực, bị kẹt trong
một rừng người hỗn loạn thiếu điều đạp lên nhau tại Rạch giá, tôi không sao tìm
thấy bóng một cái “áo vàng”.
Tôi
vẫn nhớ mãi chuyến đi từ Vũng Tầu ra Nha Trang. Tài xế của chuyến xe, như anh
tự giới thiệu, một người Thanh Hóa đã
từng là công an. Nói chung, những tài xế người “Nước Bắc” có lối lái xe
phải nói là “mất dạy” và lối nói năng cũng “mất dạy” hơn tài xế Miền Nam. Suốt
chuyến đi, vì ngồi sau lưng anh, lỗ nhĩ tôi bị tra tấn vì những câu văng tục
liên hồi của anh. Nhưng được bộ nhớ của tôi ghi nhận kỹ nhứt là lúc anh trả lời cho một hành khách muốn
xuống trước đồn công an gần một cổng trường tiểu học. Anh nói: “Làm gì có đồn
công an gần một trường học. Chẳng có thằng ngu nào lại đi xây một trường học
bên cạnh một đồn công an, bởi vì làm như thế thì trẻ con sẽ phải làm chó trước
khi kịp “học làm người”.
Tôi
đã học được rất nhiều bài học trong một tháng đi “thực tế” ở Việt nam. Nhưng
bài “học đi bộ” thì tôi đành bỏ cuộc. Mỗi lần băng qua đường mà còn lành lặn,
tôi xem như một phép lạ. Theo tôi, lối giao thông ở Việt nam thể hiện đúng cách
sống của người Việt nam XHCN hiện nay: ở đâu người ta cũng có thể luồn lách và
tránh né miễn là được việc và dĩ nhiên được việc cho bản thân mình trước đã.
Người khác có sống chết ra sao cũng mặc kệ !
Về
thăm lại quê hương tôi thấy buồn nhiều hơn vui. Phải nhìn nhận, sau 30 năm “dầy
công xây dựng” xã hội chủ nghĩa, có một số dấu hiệu của phát triển: nhiều cao
ốc hơn, nhiều đường sá hơn, cuộc sống vật chất và tiện nghi có khá hơn. Nhưng
thật đáng buồn cho một đất nước khi sự phát triển hỗn loạn đã bóp nghẹt và chà
đạp những giá trị tinh thần và luân lý. Nói như ai đó, phần “con” trong "con-người" Việt nam XHCN đã phát triển hơn,
nhưng phần “người” thì lại ngày càng nhỏ teo lại.
Nghĩ như thế mà buồn tủi cho quê hương !
Chu Thập
- Một người Việt Nam sống lưu vong ở Úc 30 năm.
Người chuyển bài – Hồ K Dũng
No comments:
Post a Comment