Thằng chự trâu và cái trốt cúi
...Trung cộng tung tiền nhiều quá, nó mua, nó gạt đủ thứ từ ngày kháng
chiến đến nay. Mấy ổng hồi trước thì ngu ngốc ký nhượng đất đai hải đảo, đếch
có cho dân biết. Bây giờ tin tức hé ra, thằng nào biểu tình phản đối thì cứ vào
ngủ trong tù, hay sáng đi làm rồi "thăng" luôn chẳng trở về! Đậu xoay
xoay cái ly rượu trên tay, trầm ngâm tâm sự, "Con không góp một bàn tay
xây dựng đất nước khi khó khăn, vì thế không dám phê phán. Con biết đời sống
dân mình sau chiến tranh rất đói khổ, nhưng con hiểu ra rằng ngày nào còn bị
độc tài với cái Đảng của bố thì trăm năm dân mình vẫn u tối.”
*
Theo tiếng địa phương từ Huế đến Nghệ
Tĩnh, người giữ trâu, thường được gọi chự tru, hay chự trâu là nông dân nghèo
và chất phác. Riêng cái trốt cúi, hay trốc gúi là đầu gối ở chân. "Khi nói
chuyện với người khác mà họ không hiểu, hay không chịu nghe, thì thà nói với
cái đầu gối của mình còn khoẻ hơn." Ngụ ý, tùy theo quan điểm từng người,
tác giả xin mời quý vị đọc câu chuyện với một tâm như huyễn, có mà không, không
mà có, suy tưởng vui, và tích cực.
l. Ấy là năm 1953, trong một làng nhỏ
vùng Quỳ Châu, Nghệ An đang sôi sục phong trào “Cải cách ruộng đất,” mấy ông
cán bộ chỉnh huấn đêm nào cũng xôn xao họp hành. Một hôm, có ông Bí thư trên
huyện “cưỡi" chiếc xe đạp của Trung Quốc về, bọn trẻ trong làng thấy lạ
nên cứ bu quanh chiếc xe mà sờ sờ, ngắm ngắm, trầm trồ. Ông Bí thư cẩn thận
khóa xe vào cột trụ trước mái hiên, “Thời buổi đói kém, trộm cắp chẳng chừa ai.
Cẩn thận vẫn hơn.” Ông nghĩ, rồi đủng đỉnh bước vào hội trường. Cả hội đồng xã
đang ngồi chờ ông. Sau khi dông dài cổ động phong trào, ông Bí thư chốt lại một
cách đanh thép:
- Phải nộp cho đủ số danh sách địa chủ
để nhân dân xử!
Xã trưởng gãi đầu; "Dạ thưa
đồng chí Bí thư, đất đai ở đây cằn cỗi, dân tình khổ từ mấy đời nay. Cái nghèo
cứ đeo đuổi, chẳng có ai giàu để được gọi là địa chủ, cũng chả có ai theo Tây
cả ạ."
Bí thư huyện nổi cáu:
- Không cần biết! Chỉ tiêu ở trên đưa
xuống rồi, thì phải tìm cho đủ!
Một thằng du kích ngồi chồm hổm dưới
đất buột miệng, "Căng quá!"
Hắn, thằng bé 8 tuổi, chỉ nghe loáng
thoáng, đếch hiểu địa chủ với cường hào ác bá là gì, nhưng người lớn đi họp,
bọn nhỏ như hắn được tự do đi chơi đêm là thích lắm.
Người ta bàn luận xôn xao, thấy mấy cán
bộ tách riêng tới nói chuyện với những người đang ngồi họp ở ngoài sân. Bố mẹ
hắn được một đồng chí chỉnh huấn hướng dẫn cách kể tội ông bà Thám - Người đã
nuôi cả gia đình hắn mấy chục năm nay. Ông bà Thám không có con cái, hay giúp
đỡ mọi người trong làng và thương bố mẹ hắn như người nhà; ông bà là người có
chục mẫu ruộng, căn nhà ngói thừa tự và hai con trâu cho dân thuê cày cấy đầu
mùa.
Hắn nghe lén, bán tín bán nghi. Ông bà
Thám cũng giống như ông bà Ngoại hắn, làm gì “có tội” để ba mẹ hắn “kể” nhỉ?
Rồi mấy ngày sau, đó là một buổi sáng
mùa thu, trời đang còn tờ mờ tối, cả làng tập trung ở sân đình nghe xử tội ông
bà Thám. Sau gần hai giờ đồng hồ nghe đấu tố, ông bà Thám bị “Nhân dân"
kết án: "Địa chủ phản động." Từ cái loa bằng lá nứa cuộn tròn người
ta nghe “Tòa” tuyên án: "Tử hình!” Hắn thấy người ta bịt mắt ông bà Thám
trói vào cái cột cuối sân đình. Tiếng súng nổ, rồi cơ thể của ông bà Thám giựt
giựt mấy cái trước khi ngoẹo đầu, đổ gục xuống làm hắn điếng hồn! Dân làng đang
trong cơn "say máu" họ la hét, cuồng nhiệt, khiến hắn cũng hùa theo,
“Đả đảo địa chủ! Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo! Cách mạng muôn năm! Muôn năm! Muôn
năm! Muôn năm!”
Trưa về, trong căn nhà im lìm cửa đóng
then cài, không một tia nắng lọt vào, tối thui tối mù, hắn thấy bố mình nằm oài
người trên chiếc giường tre ọp ẹp, chốc chốc lại thở dài thườn thượt, còn mẹ
hắn thì hai mắt đỏ hoe. Hắn xuống bếp lục tìm cái gì để bỏ trong bụng, “Đói
quá!” Hắn hỏi “Mẹ ơi, có gì ăn không?”
Mẹ đưa cho hắn củ khoai mì, "Liệu
mà im cái mồm, mẹ lạy mày đấy.”
Khuya hôm đó, hắn theo bố mẹ đẩy xe cút
kít ra đình, lén lút đưa xác ông bà Thám đi chôn. Họ được bó trong hai chiếc
chiếu cũ, túm hai đầu lại bằng sợi dây dừa như người ta cột lợn. Hắn giúp bố mẹ
đào vội vàng hai cái huyệt trên miếng đất ngoài bìa rừng rồi chôn ông bà Thám
xuống. Không một nén nhang, không một cái trứng, chén cơm để cúng!
Hai ngày sau, cơ ngơi của ông bà Thám
được lấy làm trụ sở hợp tác xã, bố mẹ hắn được hội đồng xã cho ở chái bếp sau
vườn và chia cho một sào đất để cày bừa. Hắn, thằng bé tám tuổi, cũng như những
đứa trẻ khác trong làng, được giao nhiệm vụ giữ Trâu. Buổi trưa hắn thường đem
con Trâu ra bờ sông cạn cuối làng tắm; con Trâu già rồi, lười biếng, cứ nằm ậm
ự dưới bùn, mặc lũ trẻ leo lên lưng rồi nhảy lùm bùm xuống nước. Từ đó hắn có
cái tên mới, "thằng Cùng chự trâu.”
ll. Đất nước đang có chiến tranh, đi
đâu cũng nghe khẩu hiệu, “Tất cả cho tiền tuyến,” nên hậu phương như cái làng
quê nhỏ bé của hắn không còn gì để ăn! Từ hạt gạo cho đến hột muối, cái gì cũng
hiếm. Rồi nạn đói. Làng hắn đói, cả tỉnh đói, cả miền Bắc bị nạn đói hoành
hành. Ấy vậy, nhưng chính ủy nói, “Nhân dân miền Nam còn khổ hơn Ta, vừa bị
đói, vừa bị Mỹ Diệm tù đày, chém giết.” Chú Chí, em kế của ba hắn, trước làm
nghề hớt tóc dạo, giờ là bí thư huyện ủy, đêm nào cũng tập trung dân làng ra
đình để nghe chú đọc báo.
Một buổi tối, đợi mọi người ra về hết,
chú Chí kéo hắn ra gốc mít sau hè, nói khẽ, "Tau khai thêm cho mi hai tuổi
để vô bộ đội, trước là có cái ăn cho khỏi chết đói, sau là giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Bố mẹ mi ở đây cũng được nhà nước quan tâm.”
Hắn, thằng con trai 16 tuổi (1961), học
hành lỏm bỏm chỉ đủ để viết thư, làm toán cộng trừ, nghe vậy thích quá, rối rít
cám ơn, “Con cám ơn chú Chí.”
Hắn vào bộ đội, gia nhập Đoàn Thanh
niên Cộng sản. Mấy tháng tập huấn thật là vui. Người ta phát cho hắn mọi thứ.
Trong cái ba lô khi nào cũng lủng lẳng cái tô, cái thìa, và đôi đũa. Đến giờ
vào bếp tập thể lấy phần cơm, ăn xong lấy bát múc tô nước trà đen, uống nửa còn
một nửa dùng đũa quẹt quẹt, tráng luôn cái tô!
Càng ngẫm nghĩ càng thấy chú Chí “nhìn
xa trông rộng.” Vào bộ đội như hắn, đúng là một công đôi việc, coi như vừa hết
đói, vừa được thỏa mãn tinh thần yêu nước. Sau khi tập huấn, hắn được trở về
quê, hắn đoán chú Chí muốn vậy. Bây giờ chú làm lớn, ở tận ngoài Tỉnh ủy, đúng
là số hắn hên!
Có cây súng trên vai hắn thấy mình trở
thành người lớn, chững chạc hẳn ra! Bọn trẻ con trong làng nhìn hắn nể phục hết
sức. Mấy đứa con gái tuổi mười ba mười bốn, mông ngực đã nhấp nhú trái cau cứ
liếc mắt ghẹo tình. Chẳng biết từ bao giờ hắn trở thành thần tượng của cả cái
làng này! Có ai biết đêm đêm, trước khi chìm vào giấc ngủ, hắn thường mỉm cười
sung sướng, cảm thấy hạnh phúc vô cùng, chẳng bận tâm tại sao tuổi thơ của mình
và đám bạn cùng lứa lại quá bần cùng, gian nan.
III. Một thời gian ngắn sau đó thì hắn
được điều động vào chiến trường miền Nam, tiếp tục phấn đấu nên được kết nạp
vào Đảng Cộng Sản. Lúc này, tình hình chiến sự rất gay cấn. Mỹ thả bom dọc
tuyến đường mòn dãy núi Trường Sơn. Không may, nơi hắn trú quân bị trúng bom.
Hắn bị thương ở chân, mất máu nhiều, gần hai ngày sau mới tỉnh lại.
Tiếng súng nổ ngày càng gần hơn, rền
vang cả một vùng khiến hắn vô cùng khiếp sợ. Tâm trí thì cứ u u mê mê vì hắn bị
thêm sốt rét rừng, mỗi lần lên cơn sốt, người cứ như luỗi đi.
Chính ủy ra lệnh: "Thương binh ở
lại trạm về sau. Trên đã quyết bảo toàn lực lượng và đánh lạc hướng địch. Đêm
nay ta rút.”
Vậy là sư đoàn âm thầm rút đi, trạm xá
dã chiến được nguỵ trang thật kỹ dưới các hầm giao liên, xuyên qua núi rừng, ở
ngoài không cách gì nhìn ra được. Sức khoẻ hắn tốt dần lên, hắn đã có thể đi
lại và giúp đỡ các bác sĩ, y tá cũng như các thương binh khác.
Thời gian này, hắn học được nhiều “kiến
thức” y tế. Khi thấy vết thương cẳng chân một thương binh đã thối, y sĩ phán:
“Cắt”. Thế là hắn phụ y tá cầm cưa, chích thuốc, thay băng. Hết nước biển
chuyền, y sĩ cho người trèo lên cây dừa hái trái non, chọc ống xi lanh vào cùi,
xịt nước ra, cứ thế mà chuyền vào mạch máu, chẳng hiểu sao mà thương binh sống
nhăn! Chiều tối, trạm xá thắp đèn dầu tù mù sinh hoạt, nghe tin tức Hà Nội từ
cái đài cỏn con của chính ủy, đa số là tin quân ta thắng trận trăm bề, lòng dân
phấn khởi, đất nước hồ hởi đến thế là cùng.
Lúc này, hắn bắt đầu hút thuốc. Mỗi khi
không có việc gì làm, hắn thường cùng các chiến hữu, nhâm nhi kéo điếu thuốc
lào như mấy ông cụ non, đấu láo đủ chuyện trên trời dưới đất, đứa bảo nhớ nhà,
nhớ con trâu, nhớ bố mẹ. Còn hắn, ngồi vác cả hai chân lên ghế, đầu gối kẹp
lại, nửa đùa nửa thật, “Ngồi thế này mới giãn gân giãn cốt, mới có tác phong
nông dân dẫn đường cách mạng cho cả nước chứ!”
Ở trong chiến khu, thời gian thấm thoắt
thoi đưa, bây giờ đã qua mùa mưa. Nghe đâu lính Mỹ không quen thời tiết ở vùng
nhiệt đới như nước mình, nên tình hình chiến sự có mòi yên tĩnh hơn. Không còn
những trận mưa bom hay pháo kích nữa. Dựa vào thương tích của hắn, chỉ huy cho
hắn xuất ngũ với cái bằng thương binh kháng chiến. Người ta hỏi hắn có muốn gì
nữa không? Hắn muốn đi học lớp trung cấp y sĩ, ngoài Hà Tĩnh.
Học xong hắn về quê ở với bố mẹ. Một
hôm bố hắn hỏi: "Con có muốn lấy vợ không?"
Con bé Thắm, nhà ở cuối làng năm nay
mười bảy mà người ngợm phổng phao như mít chín trên cành. Hắn đồng ý. Năm sau
thì bố mẹ hắn có cháu nội, thằng bé tên Nguyễn văn Đậu. Đó là năm 1968, hắn
tròn 23 tuổi.
IV. Chú Chí bí thư năm xưa giờ đã về
làm ở tận thủ đô, ngoài trung ương lận. Chú vẫn lo lắng cho hắn như thuở nào.
Chú đưa hắn về làm ở Sở Y Tế. Hắn không thích lắm. Chú đưa hắn qua làm ở bệnh
viện tỉnh, bí thư đảng ủy! Nghe cũng “vang” chán!
Việc làm chính của hắn là quản lý tư
tưởng cán bộ, bí thư đảng ủy phải hiểu là quan trọng hơn giám đốc. Việc thuốc
men, mổ xẻ đã có y bác sĩ lo. Khi không có giám đốc, hắn phải chủ tọa giao ban
buổi sáng. Nghe bác sĩ trực báo cáo có ca bệnh khó cần giải quyết thì hắn gật
gù, nhìn quanh các trưởng khoa, rồi nói:
- Tập trung dân chủ nhé. Hội chẩn. Các
đồng chí có hướng điều trị thế nào?
Lỡ vướng vào bệnh nhân nặng dễ chết, dễ
mất điểm thi đua, ai cũng góp ý đoảng!
- Nhất trí chuyển bệnh lên tuyến trên!
Mà cũng phải thôi, “Dại gì, ách giữa
đàng mang vào cổ?” Thật là tiện lợi, vừa bảo đảm tính mạng bệnh nhân, vừa đỡ lo
ngay ngáy, nhỡ cái thằng này mổ xong bị nhiễm trùng, mình mang tiếng ác, mất mẹ
nó lao động tiên tiến mười mấy năm liền. Há là chẳng bao giờ có sai sót trong
bệnh viện ư?
Đến một ngày kia, ông bí thư huyện
ủy đi ăn giỗ về trúng gió ngã lăn đùng ngoài lộ, người dân chung quanh xúm lại
giựt tóc mai, cạo gió, cấp cứu không được, đành phải để ông quy tiên!
Nhưng mà “Xui người, hên ta!” nhờ vậy
hắn được tức tốc chuyển qua làm "Bí thư huyện ủy." Vợ chồng hắn nay
được người ta một tiếng dạ, một tiếng thưa hẳn hoi, “Thưa đồng chí bí thư
Cùng,” không thể gọi trống rỗng “Anh Cùng” được đâu nhé!
Cái tên Nguyễn văn Cùng, hay “Thằng
Cùng chự trâu," đã thuộc về quá khứ.
V. Đầu năm 1975, tình hình chiến sự
thay đổi, quân đội Mỹ ở miền Nam rút đi. Đảng dự tính phải một vài năm mới xong
để thống nhất hai miền. Các đồng chí Chu Ân Lai, ông Nixon, ông Brezhnev đã
đồng ý với nhau từ Paris, 1973 rồi, vậy mà đằng này mới hơn có bốn tháng đã
xong. Bộ chính trị trở tay không kịp, cứ như nhà ba bốn đứa con gái chưa chồng
có chửa cùng lúc. Hắn được điều ngay vào Huế. Các thành phố mới tiếp quản, bao
nhiêu việc phải làm, nào là chỉ thị, tịch thu tài sản, học tập chính trị… Hắn
làm ở ủy ban quân quản thành phố.
Nhiều cái hắn cũng thấy ngờ ngợ, lạ
lùng, hư thực mơ màng, đúng sai lẫn lộn. Bao nhiêu điều người ta dạy hắn về
miền Nam khổ sở, đói nghèo, thì giờ mắt hắn thấy, tai hắn nghe hoàn toàn ngược
lại. Kỳ cục! "Nhà nước ta nói dân miền Nam khổ lắm, sao ở đây nhà nào cũng
có cái đài ra-dô, máy quạt, xe máy chạy tấp nập thế?” Hắn nghĩ.
Nhưng phong trào đang dữ dội quá nên
hắn cứ bị cuốn đi với công việc, không kịp có thì giờ suy nghĩ, mà nghĩ cho
cùng, Đảng đã nói thì không sai được!
Sau một thời gian thì hắn đưa vợ con
vào. Hắn vốn tính hiền lành, thay đổi nhanh với cuộc sống. Hắn yêu miền Bắc,
quê hương nơi chôn rau cắt rốn, nhưng hắn nhận ra sự khác biệt của người miền
Nam, cởi mở, nhanh nhạy, dễ làm ăn.
Thằng Đậu mỗi ngày mỗi lớn, hay thắc
mắc, hay hỏi khó cho hắn. "Mình sinh con trời sinh tánh, nói gì nó cũng
vặn vẹo, cãi bướng ngang ngạnh như cua,” đôi khi cũng bực mình.
Có buổi chiều ngồi ăn cơm, nó hỏi:
- Cái cô hộ lý làm bệnh viện học lớp
mấy bố nhỉ?
Hắn ngừng đũa, ậm ừ cho qua chuyện,
"Hộ lý chỉ làm vệ sinh, chùi nhà, đâu cần học."
- Thế sao Mẹ nói lương thực tem phiếu
cũng bằng bác sĩ? Thằng Đậu cãi.
Hắn nói như trong sách đã học "Ấy,
thế xã hội mới công bằng, ai cũng đồng đều như nhau."
Im lặng một lát, thằng Đậu lại cắc cớ:
- Vậy sao bố bắt con phải học?
Lần này hắn nổi nóng tam bành, "Mả
cha mày, tau không học ở trường, nhưng tau học ở chiến trường trên bom dưới
đạn, đảng đoàn bổ túc văn hóa cho tau. Mày chỉ có việc ăn ngày ba bữa xách đít
đến trường, bày đặt hỏi cắc cớ, vớ vẩn. Nói chuyện với mày chán lắm, chẳng thà
vén ống quần nói với cái trốt cúi tau."
Thằng Đậu ngớ người:
- Trốt cúi?
Hắn thấy thương thằng con, nên hạ
giọng. "Là cái đầu gối của tau. Hai lần bị thương, may mà không bỏ xác nơi
chiến trường con ạ.”
VI. Cứ tưởng nước nhà thống nhất thì
nhân dân được hưởng hòa bình. Ngờ đâu, chỉ có mấy năm, súng đạn lại nổ dữ dội
phía Tây Nam, từ Campuchia. Phía Bắc thì quân đội Trung cộng tràn qua. Thanh
niên phải nhập ngũ, tổng động viên và nạn đói trở lại. Thiếu ăn thiếu mặc làm
con người khô héo cả thể xác, cả trí thức tâm hồn. Bao nhiêu điều thánh thiện
ông bà giảng dạy, không bằng bát phở khi cái dạ dày rỗng queo.
Đầu năm 1985, lúc này thằng Đậu được 17
tuổi, một buổi tối hai vợ chồng ngồi ăn cơm, bà Thắm bảo:
- Ông à, phải tìm cách cho thằng Đậu đi
nước ngoài, tôi không muốn nó đi bộ đội đâu.
Ông làm một ngụm trà Đức Thái, đốt điếu
thuốc ba số, nhả khói, tay mân mê cái hộp quẹt Dunhill giám đốc hải quan biếu
tặng hôm qua, "Ừ, bà nói đúng. Tuần sau tui ra Hà Nội nhờ anh em lo,
chuyện nhỏ!"
Thế là sáu tháng sau, thằng Đậu đã có
mặt ở Đông Đức.
Sự đời oái oăm, mấy tháng đầu Đậu vào
lớp, nó chỉ được học ngôn ngữ khó như ma quỷ là tiếng Đức, rồi chính trị Marx
Lenin ngán tận cổ. Vì thế nó đâm ra nản, nghi ngờ mọi thứ, cứ ngỡ ra nước ngoài
thoải mái, ai dè đồng chí anh em dạy những bài xã hội chủ nghĩa giông giống
nhau thôi.
Từ đó nó ít nói, ít cười, mắt cứ nhìn
đăm đăm suy tư về một thế giới khác, nó đọc nhiều báo, nghe bạn bè kể về Âu
Châu, tam quyền phân lập. Nó cũng nghe nhiều về nước Mỹ tự do bầu cử, tôn trọng
nhân quyền.
Đêm mồng mười, tháng mười một, năm tám
mươi chín, bức tường Berlin sụp đổ. Thằng Đậu là một trong hàng ngàn người đầu
tiên tràn qua biên giới đến Tây Đức qua cửa khẩu Bornholmer, trong đó có bà
Angela Merkel, bây giờ là thủ tướng. Cả một chân trời mới rực sáng trong đôi
mắt, trái tim của Đậu, gã thanh niên lớn lên từ Việt Nam, một đất nước theo chế
độ cộng sản như Đông Đức.
“Công dân Đông Đức đã được người dân
Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho
uống không phải trả tiền, và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp
còi diễn hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. Nước Đức tái
thống nhất kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1990.”
Cách xa nửa vòng trái đất, ông bà bí
thư nhìn nhau ngơ ngác khi đọc hàng tin trên qua báo. Thôi, thế là cái hủ mắm
đầu giàn, thằng con quý tử bây giờ lang thang nơi nào?
Vll. Đa số người Việt chạy tránh qua
Tây Đức là lao động xuất khẩu, buôn bán mánh mung thuốc lá và rượu. Họ chỉ mong
kiếm tiền và trốn tránh chế độ cộng sản, chẳng tha thiết gì đến tình hình xã
hội, cuộc sống của đồng bào trong nước. Đậu là một trong những người hiếm hoi ý
thức sự bất bình đẳng ở quê nhà, nhìn hai cảnh đời khác nhau giữa Đông và Tây
Đức, hiểu được nền dân chủ Âu châu và sự khốn khó các nước xã hội chủ nghĩa,
Đậu luôn ao ước làm một điều gì ích quốc lợi dân, anh tìm thấy chỉ có một con
đường vươn lên là xách cặp tới trường trở lại.
Một buổi chiều thu rất đẹp, lá phong đỏ
khắp các ngọn đồi thoai thoải bao quanh trường học, trong giờ giải lao, tình cờ
Đậu bắt chuyện với một cô gái người châu Á. Cha mẹ cô là những người tỵ nạn gốc
Việt, mẹ cô có một tiệm bánh Pâte Chaud, bố là một kỹ sư điện toán. Cô sinh ra
ở Tây Đức, tiếng Việt không lưu loát nhưng hiểu được, tên là Kathleen, ở nhà
gọi là Bé.
Nhờ vào những lần đến thăm gia đình
ngày cuối tuần, Đậu mới hiểu được lịch sử sống thực của những nạn nhân cộng
sản, tại sao họ phải liều mình trên những chiếc thuyền mong manh bỏ nước ra đi
năm 1975. Được khuyến khích và giúp đỡ của gia đình Kathleen, Đậu quyết tâm đi
học mà không nghĩ đến chuyện gì khác, cuối tuần anh đi làm thêm ở một tiệm ăn
kiếm chút tiền còm tiêu vặt.
Phải mất ba năm Đậu mới được nhận vào
học Vật lý trị liệu ở Heidenberg University ở Đức. May mắn vì anh có thêm quy
chế tỵ nạn chính phủ. Cái bằng cao đẳng chỉ bốn năm nhưng là một cố gắng lớn
đối với một kẻ giang hồ lang bạt như anh. Ơn trời, anh được làm việc chung với
một nhóm giáo sư chuyên nghiên cứu tái tạo khớp xương giả, họ ứng dụng kỹ thuật
tối tân bằng computer chip để kết nối dây thần kinh từ não bộ, xuống đến bắp
thịt để vận hành động tác của khớp là đáng kinh ngạc nhất.
Từ những thí nghiệm ở bắp thịt lớn như
Hamstring, Rectus femoris đến những cơ bắp nhỏ như Adductor, Piriformis. Các
electro myogenic được kết nối dây thần kinh sensory chuyền vô tủy sống, lên
não, rồi trở về mấy sợi motory khiến chín mươi phần trăm bệnh nhân có thể sai
khiến các cơ phận khớp di chuyển theo ý mình. Các khớp giả này cần phải nhẹ,
nhỏ, không gây tiếng ồn, và nhất là không quá đắt tiền.
Đậu thường được đi nhiều nơi chung với
nhóm nghiên cứu này. Âu Châu thường có ý tưởng mới, nhưng để trở thành sự thực
thì phải cần đến những softwares, những vi mạch điện tử của người Mỹ, và không
đâu có thể thỏa mãn được những điều đó bằng Silicon Valley. Các công ty Ekso
Bionics Holding, iRobot, Appleknee Rehab mời mọc nhóm anh hợp tác với những
phòng thí nghiệm tối tân, hằng triệu dollars được đầu tư, hàng ngàn bệnh nhân
cụt tay chân đi đứng leo trèo lại được, và dĩ nhiên, cổ phiếu của các công ty
này vùn vụt tăng lên.
Vlll. Sau khi chấm dứt những buổi
seminar gặp gỡ doanh nghiệp tại Hà Nội, Sài Gòn, Đậu đáp máy bay ra miền Trung
thăm nhà. Bố đã về hưu ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Nhà cửa buồn hiu cô quạnh chẳng mấy
ai lui tới viếng thăm. Khi có chức thì bè bạn rôm rả, khi có quyền thì ai cũng
nhiệt tình hơn cả bà con láng giềng. Sự đời, khi mất hết những cái đó thì ông
chỉ còn là củ khoai héo, trái mướp già, hay thậm chí là cái lạnh lùng trong ánh
mắt người chung quanh.
Bà Thắm mẹ anh đã ra đi vì đạp phải mìn
nổ còn sót lại khi thăm bà con ở Gio Linh, Quảng Trị. Mất hai cẳng chân, mảnh
đạn nhẫn tâm cắt vào bụng và tàn phá tủy sống khiến bà liệt hẳn từ lưng xuống,
thê thảm hơn, lở loét ở vùng xương cụt ngày càng nặng. Bệnh viện chỉ chữa các
vết thương lớn rồi cho về sau mấy tháng điều trị. Săn sóc người bại liệt là một
nghiệp quá cay đắng; đau lòng cho bệnh nhân và người chung quanh. Đôi khi tỉnh
táo, bà tự nhủ: "Nhân và quả, các ông bày trò chiến tranh, gài chông bẫy
mìn, bây giờ vợ con ông lãnh hết. Người dân có tội tình gì với cả ngàn tấn bom
mìn còn lại." Hai năm sau thì bà mất với những mũi morphine ân huệ cuối
đời.
Sau giây phút trùng phùng cảm động,
không ai nói nên lời, có những giọt nước mắt lăn trên má bố anh. Nhớ bố thích
rượu ngon, anh mở chai Cordon Bleu mang về rót ra ly mời, hai cha con cụng ly
đối ẩm:
- Đất nước thay đổi nhiều chắc con
thấy, nhà cao tầng, phố rộng, đường xanh. Nhưng tất đều do viện trợ của nước ngoài,
cũng có nghĩa là đi mượn tiền, có vay thì phải trả. Ai trả, con biết không?
Làm thêm một hớp rượu nữa, ông chua
chát: “Mẹ kiếp! Cả nước có năm thành phố lớn thuộc trung ương, các quan đẩy dân
đi chỗ khác, bồi thường vài đô la cho mỗi mét đất, rồi bán lại hàng ngàn đô,
bảo sao không giàu? Tham nhũng từ trên xuống dưới, tranh giành quyền lực, trên
bảo dưới không nghe cứ ấm ớ chây lười. Đảng, chính quyền, thế lực thanh toán
nhau lộ liễu hơn cả Mafia.”
Suy tư trong ánh mắt xa vời vợi của một
người già ngoài bảy mươi, ông quay lại nhìn Đậu:
- Bố thất vọng quá, xin ra khỏi đảng
hơn mười mấy năm nay!
Đậu hỏi: "Thế họ có làm phiền bố
không?"
- Dĩ nhiên là có, nhưng tau cáo bệnh
không sinh hoạt được.
"Con về Sài Gòn thấy lớp trẻ rất
giỏi, kiến thức rộng nhờ internet, tiếng Anh trôi chảy, tài năng nhiều…” Đậu
kể.
Ông đánh cộp ly rượu xuống bàn ngắt
lời:
- ...Mà không kiếm được việc làm, chẳng
được trọng dụng, phải không? Bố đã nói rát cổ họng, chẳng thằng đại biểu gật
nào ở quốc hội lắng nghe.
Rồi lại hạ giọng, nhỏ nhẹ vừa đủ nghe:
- Trung Quốc tung tiền nhiều quá, nó
mua, nó gạt đủ thứ từ ngày kháng chiến đến nay. Mấy ổng hồi trước thì ngu ngốc
ký nhượng đất đai hải đảo, đếch có cho dân biết. Bây giờ tin tức hé ra, thằng
nào biểu tình phản đối thì cứ vào ngủ trong tù, hay sáng đi làm rồi
"thăng" luôn chẳng trở về!
Đậu xoay xoay cái ly rượu trên tay,
trầm ngâm tâm sự, "Con không góp một bàn tay xây dựng đất nước khi khó
khăn, vì thế không dám phê phán. Con biết đời sống dân mình sau chiến tranh rất
đói khổ, nhưng con hiểu ra rằng ngày nào còn bị độc tài với cái Đảng của bố thì
trăm năm dân mình vẫn u tối.”
- Đúng, đã hơn sáu chục năm rồi. Ai
cũng biết mọi kinh phí xây dựng đưa xuống tụi nó ăn mất hơn nửa, bao nhiêu cũng
không vừa, lại đụng chạm con ông này cháu ông kia. Nay con về cá biển đâu còn nữa,
mắm muối cũng không, miền Trung gạo thịt không nhiều, hàng ngàn người thất
nghiệp, du lịch chẳng ma nào muốn đến, hàng quán bán buôn ngồi nhìn nhau ngắc
ngoải, vậy là dân đói.” Ông nói.
Đậu nhắc, "Ngày xưa bố thích nói
chuyện với cái trốt cúi hơn là nói chuyện với con."
Ông cười ha hả, quả thật lâu lắm mới
được vui như thế này.- Vâng, bố đã sai. Sai lầm khủng khiếp, rồi ăn năn mãi cho đến giờ phút này.
Thắp điếu thuốc nhả khói, giọng ông
tiếc nuối. "Theo Đảng hơn nửa đời người để chỉ thấy tất cả đều chỉ là
những cái trốt cúi lì lợm, không trái tim! À, mà nghe con nay học có nghề làm
khớp giả, bố mừng lắm."
"Con đang hợp tác với tổ chức
RENEW của Mỹ, MAG Anh quốc để gỡ mìn và giúp bệnh nhân vùng Quảng Trị này;
trong chiến tranh họ không cần phải có trách nhiệm, nhưng họ có lương tâm khi
muốn làm điều đó. Con sẽ về thường xuyên hơn.” Đậu giải thích.
- Ừ, giúp người thương tật chiến tranh
đi đứng lại được, công đức con lớn lắm. Ngày xưa Bố thấy mà không nhiệt tình
cứu giúp, bây giờ hối hận quá.
"Con vẫn hy vọng đất nước sẽ thay
đổi, thế giới đang thay đổi từng ngày.” Đậu đáp.
- Nghe lời bố, bọn lãnh đạo này không
thể mổ để thay trốt cúi được, phải chặt hết rồi thay chân mới như con đã làm,
hy vọng nó mới cảm thấy cái khổ của dân nghèo, giảm bớt lòng tham!
Nhìn thẳng vào mắt bố, Đậu nói:
- Sửa một vài đôi chân giả không bằng
giúp sửa cái nhìn. Nhìn thẳng. Ngửng đầu đứng dậy của người dân. Ngày nào đó,
giới trẻ sẽ tự chọn cho mình giới hạn những thách thức, hay thách thức lại
những giới hạn này."
Nghe lời tâm huyết của con như thế ông
gật gù mừng lắm. Tai yếu, mắt mờ, cuộc đời ông đã tiêu tan mọi thứ, có hôm đi
thăm mộ vợ, gặp vị sư già ở một ngôi chùa vắng, sư nghe ông tâm sự rồi mĩm
cười, “Tu là sửa. Đồ tể buông đao là đã thành Phật.” Ông suy nghĩ nhiều đêm về
câu nói đơn giản đó.Bây giờ ông chỉ còn giữ niềm tin nơi giới trẻ, những người sẽ quên mình dấn thân, những người không ngu ngơ bị xỏ mũi như con trâu và giống như ông ngày nào. Chự trâu và cái trốt cúi, ngôn ngữ mộc mạc đó có thể làm người khác chẳng có gì băn khoăn, nhưng thằng giữ trâu và cái đầu gối, hai điều giản dị ấy đã làm ông chết đi và sống lại biết bao lần trong chỉ một kiếp người.
Người chuyển
bài - HV
No comments:
Post a Comment