30-4
Nhìn Lại: Trách Nhiệm Về Ai?
Nhân dịp 42 năm ngày đau buồn của đất nước, ta thử xem lại một góc cạnh
của chuyện cũ.
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có cuộc chiến nào gây tranh cãi như
cuộc chiến VN, từ nguyên nhân, đến diễn tiến, hậu quả,... Đọc cả trăm cuốn sách
thì sẽ thấy cả trăm luận cứ, chẳng ai đồng ý với ai. Mà tranh cãi mạnh nhất dĩ
nhiên là vấn đề trách nhiệm. Ai chịu trách nhiệm khơi mào, ai chịu trách nhiệm
chấm dứt chiến tranh?
Ở đây, ta chỉ nói từ phiá “ta”, tức là từ phiá VNCH và đồng minh thôi.
Chứ dưới góc nhìn của CSVN thì mọi chuyện rõ như ban ngày: tất cả là lỗi “đế
quốc Mỹ và đám tay sai ngụy quyền”, nói chuyện với đầu gối có ý nghiã hơn.
Nói về khơi mào chiến tranh thì có vẻ quá bao quát. Ta đang nói về chiến
tranh nào? Nhìn gần thì cuộc chiến bắt đầu tháng Chạp năm 1960 khi CSBV đẻ ra
cái quái thai Mặt Trận Giải Phóng để thôn tính Miền Nam. Nhìn xa hơn một chút
thì cuộc chiến bắt đầu tháng Chạp năm 1946 khi Pháp đánh Việt Minh (VM) tại Hải
Phòng đưa đến cuộc chiến dành độc lập của VM. Hội nghị Geneve và vĩ tuyến 17
chỉ là cuộc hưu chiến ngắn. Nhìn xa hơn nữa thì phải nói cuộc chiến bắt đầu
thời Phan Thanh Giản khi Pháp khởi quân chiếm VN, nẩy sinh ra các phong trào
kháng chiến chống Pháp bằng vũ lực, liên tục cho đến thời Đề Thám, Phan Đình
Phùng,... rồi các phong trào Việt Quốc, Việt Cách và Việt Minh.
Thực tế lịch sử là cả ba khởi điểm trên đều khó tách riêng ra được. Nếu
Pháp không xâm chiếm VN thì đã không có các cuộc kháng chiến, có thể đã không
có phong trào VM, đã không có chia đôi đất nước, đã không có cuộc chiến 60, và
đã không có ngày 30-4.
Điều đáng suy gẫm là cho dù Pháp không đô hộ VN thì cũng chưa chắc là đã
không có hiện tượng CSVN, và đã không có cuộc chiến quốc-cộng. Phong trào quốc
tế CS với chủ trương sơn đỏ cả thế giới, chắc chắn đã không bỏ qua nước VN ta.
Và nếu chúng đến VN, ai biết được phản ứng của dân VN đã như thế nào? Có sẵn
sàng chấp nhận chế độ CS không hay cũng đã có một cuộc chiến huynh đệ tương tàn
giữa phe CS và phe không chấp nhận CS?
Bàn đến đây thì ta lại thấy lộ ra một vấn đề khác: cuộc chiến dai dẳng
hiển nhiên là khởi đi từ tinh thần ái quốc dành độc lập, đã biến thể thành cuộc
chiến ý thức hệ quốc-cộng. Như vậy thì biến thể từ lúc nào?
Hồ bắt đầu ra tay bắt cóc và thủ tiêu các lãnh tụ Việt Quốc và Việt Cách
cuối 1945, chỉ vài tháng sau khi chính phủ liên hiệp được thành lập. Nhưng khi
đó hệ thống thông tin còn cực kỳ thô sơ, không có TV, báo chí, internet như
ngày nay, trong khi VM ém nhẹm nên tuyệt đại đa số dân ta không hay biết gì về
việc VM tráo trở. Cái gian ý của Hồ là dụ dỗ Chu Bá Phượng ở lại nội các để
thiên hạ tưởng VNQDĐ vẫn hợp tác với VM. Do đó, khi Pháp đánh VM và VM hô hào
tiêu thổ kháng chiến thì cả nước hưởng ứng ngay.
Do đó, ta có thể nói cuộc chiến năm 46 khởi đi như là cuộc chiến dành
độc lập, có khá nhiều người không CS tham gia để đánh Pháp. Cuộc chiến này
chuyển hướng hẳn qua cuộc chiến quốc-cộng từ những năm 49-50, sau khi Mao chiếm
được cả lục địa Trung Hoa, tràn qua VN, một mặt giúp Hồ đánh Pháp, mặt khác
cũng giúp Hồ tung ra nhiều chính sách (cải cách ruộng đất, thuế má,...) nhằm
cộng sản hoá những vùng do VM chiếm giữ khiến rất nhiều người không CS bỏ chiến
khu, “về thành”, trong khi Pháp bắt đầu trả độc lập cho VN và tướng De Lattre
thành lập quân đội quốc gia VN, từng bước trao quyền cho sĩ quan VN.
Một cách tóm gọn, có thể nói trách nhiệm xa gây ra cuộc chiến tại VN
chính là thực dân Pháp, trong khi trách nhiệm gần hơn là cộng sản quốc tế. Cả
hai thế lực đều mang mộng thôn tính nước ta và gặp phải sự chống đối của dân
ta, đưa đến chiến tranh triền miên trên đất nước ta.
Có một cách khác để bàn về trách nhiệm: đó là nhìn lại những cơ hội
tránh chiến tranh.
VN đã có một cơ hội rất lớn có được độc lập và vẹn toàn lãnh thổ trong
hòa bình ngay sau Thế Chiến II, khi TT Roosevelt đòi hỏi các cường quốc Âu Châu
trao trả độc lập cho các thuộc địa.
Ý kiến trên đáng tiếc thay đã không thành hình sau khi TT Roosevelt qua
đời và khi tướng De Gaulle ngoan cố không chấp nhận nhả Đông Dương, ép TT
Truman phải giúp Pháp trở lại Đông Dương, như cái giá phải trả để Pháp tham gia
vào khối liên minh Mỹ-Tây Âu (NATO) chống sự bành trướng của CS Liên Xô tại Âu
Châu. TT Truman đánh giá đồng minh với Âu Châu để cản CS Liên Xô quan trọng hơn
độc lập của các thuộc địa. Mỹ quyết định giúp Pháp trở lại Đông Dương. Làm mất
đi một cơ hội lớn để VN được độc lập và tránh chiến tranh.
Dĩ nhiên nếu trường hợp đó xẩy ra thì khi đó, 1945-46, cũng là lúc VM
với Hồ Chí Minh đang nắm quyền, và cả nước VN đã được “độc lập” dưới chế độ CS
rồi, cho dù dưới danh nghiã chính phủ liên hiệp với sự hiện diện của Việt Cách,
Việt Quốc, và vài nhân vật độc lập không đảng phái trong nội các. Câu hỏi là
trong trường hợp đó, Hồ có cộng sản hoá VN không, có còn chấp nhận chính phủ
liên hiệp không, và người quốc gia có tiếp tục chấp nhận Hồ không? Hay là sẽ có
ngay nội chiến quốc-cộng? Nhìn vào việc Hồ thanh toán chính phủ liên hiệp cuối
năm 45 thì câu trả lời quá rõ.
Dù sao thì trách nhiệm của tướng De Gaulle cũng thật lớn khi ông nhất
quyết không chịu nhả Đông Dương khi đó.
Một cơ hội tránh chiến tranh, bảo toàn lãnh thổ, và đạt được độc lập nữa
là trận chiến Điện Biên Phủ. Khi đó VM đánh ván bài xả láng, tung gần hết lực
lượng ra để hạ Pháp ngay khi Hội Nghị Geneve đang diễn tiến để tìm giải pháp
cho Đông Dương, với sự giúp đỡ mạnh của Mao. Khi VM đe dọa Điện Biên Phủ, Pháp
đã yêu cầu Mỹ giúp, trải thảm bom tiêu diệt lực lượng CS khi đó đang tập trung
quanh thung lũng Điện Biên, nhưng TT Eisenhower từ chối can dự nếu không có vài
“đồng minh” tham gia cùng, chủ yếu là Anh Quốc. Nhưng Anh là bạn thực dân của
Pháp, sợ Mỹ nhẩy vào sẽ diệt cả CS lẫn Pháp và tóm thâu VN vào ảnh hưởng của
Mỹ, và vẫn bực mình vì bị Mỹ ép làm mất các thuộc điạ lớn như Ấn Độ, Miến Điện,
và vài nước Phi Châu, không chịu can thiệp cùng với Mỹ.
Việc Mỹ-Anh không can thiệp đưa đến chiến thắng cho VM tại Điện Biên Phủ
rồi tại Geneve luôn, tặng cho CSVN cái tiếng chính danh đuổi được thực dân
Pháp, ít nhất trên một nửa nước và củng cố sức mạnh của CSVN cho đến khi họ trở
thành đối thủ tay đôi của Mỹ ít năm sau.
Nếu như Mỹ nhẩy vào cuộc khi đó, biết đâu CSVN đã bị tiêu diệt ngay tại
Điện Biên Phủ và giải pháp Bảo Đại với Quốc Gia VN đã trường tồn? Tức là VN đã
được độc lập mà không có cuộc chiến quốc-cộng luôn.
Trách nhiệm này phải nói là của chính TT Eisenhower, một ông tướng giỏi
về quân sự, nhưng không có viễn kiến chính trị [trong Thế Chiến II, đã từng
dừng quân sau khi vượt biên giới Pháp-Đức, nhường cho Liên Xô chiếm Ba Lan,
Tiệp, Đông Đức và Bá Linh, đưa đến tình trạng CS hóa một nửa Âu Châu sau đó].
Bây giờ ta nhìn qua giai đoạn cuối của cuộc chiến, ai chịu trách nhiệm
để VNCH lọt vào tay CSBV?
Cho đến nay, ngay cả trong khối người Việt tỵ nạn, đã có không ít người
vẫn mạnh miệng tố cáo TT Nixon cùng với Ngoại Trưởng Kissinger, thông đồng bán
đứng Nam VN cho Trung Cộng, để tập trung nỗ lực cứu Do Thái.
Lập luận này chỉ là cái lý chạy tội của đảng Dân Chủ Mỹ, không hơn không
kém, mà nhiều người vô tình hay cố tình đã chấp nhận và lập lại.
Hiển nhiên là đảng DC lúc đầu rất hăng say trong lý tưởng bảo vệ tự do,
dân chủ, nhân quyền, thích can thiệp vào chuyện thiên hạ, làm người hùng cứu
nhân độ thế. TT Kennedy trong diễn văn nhậm chức để đời đã nói rất hùng hồn là
nước Mỹ “sẽ trả bất cứ giá nào, chịu bất cứ gánh nặng nào, nhận bất cứ khó khăn
nào, để hỗ trợ tất cả các nước bạn, chống lại tất cả kẻ thù, để bảo đảm sự sinh
tồn và thành công của tự do”. Nổ lớn hơn kho đạn Biên Hòa.
TT Johnson đã tiếp nối con đường đó sau khi TT Kennedy bị ám sát. Cho
đến tháng Tám 1964, TT Johnson vẫn còn được hậu thuẫn rất mạnh khi nghị quyết
Vịnh Bắc Việt, Tonkin Gulf Resolution, gần như khoán trắng cho TT Johnson đánh
Bắc Việt, đã được biểu quyết với tỷ lệ phiếu 416-0 tại Hạ Viện và 88-2 tại
Thượng Viện.
Nhưng cái nhìn của dân Mỹ về chiến tranh VN bắt đầu chuyển hướng khi
cuộc chiến kéo dài quá lâu vì những sai lầm và thất bại chính trị và quân sự
của Mỹ, và khi các phong trào chống sự tham chiến của Mỹ nổi lên mạnh từ những
năm 67-68. Dân Mỹ mất kiên nhẫn, kinh hãi trước những cảnh máu lửa chết chóc
của chiến tranh được thấy trong mỗi bữa ăn gia đình trên TV, đau buồn khi nhìn
thấy con số cả chục ngàn thanh niên về Mỹ trong quan tài phủ cờ, và hàng trăm
ngàn thanh niên khác giải ngủ trong tình trạng què cụt trong khi viễn ảnh hoà
bình mù tịt, cũng như bị lay chuyển bởi các xách động gọi là “phản chiến” của
truyền thông và giới trí thức cấp tiến thiên tả, được cổ võ và điều khiển thẳng
từ Mạc Tư Khoa và Hà Nội.
Trong khi đảng CH còn cầm cự, muốn giúp VNCH thì đảng DC bắt đầu tháo
chạy, khi trong cuộc bầu tổng thống năm 1968, các ứng viên “phản chiến” đe dọa
nặng nề TT Johnson, đến độ ông phải bỏ cuộc, không ra tranh cử nữa. Phe “phản
chiến” thất bại, cựu PTT Nixon vào Tòa Bạch Ốc, nhưng đảng DC chiếm đa số tại
cả Thượng Viện lẫn Hạ Viện, với sự đắc cử của hàng loạt dân biểu và nghị sĩ
“phản chiến”.
TT Nixon thuộc loại diều hâu, nhưng bị áp lực nặng phải rút ra khỏi Nam
VN. Dù vậy, ông không chấp nhận rút ra theo kiểu phe DC đòi hỏi, tức là rút ra
chỉ với một điều kiện duy nhất là mang các tù binh Mỹ về nước, còn số phận Nam
VN ra sao thì tuyệt đối không thắc mắc.
Trong suốt thời gian nắm quyền, ông đã gặp phải chống đối tuyệt đối của
phe đối lập DC và TTDC thiên tả suốt ngày bôi bác miền Nam và ca tụng VC, chưa
kể hàng vạn người xuống đường biểu tình liên tục cả mấy năm trời. Chỉ trong
nhiệm kỳ đầu, TT Nixon đã bị Hạ Viện DC biểu quyết hơn 80 lần, trung bình 3
tuần một lần trong suốt bốn năm, đòi Mỹ chấm dứt can dự vào cuộc chiến.
Tháng Chạp 1969, Thượng Viện DC thông qua luật Church-Cooper cấm triệt
mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ Lào. Đường mòn Hồ Chí Minh được các nghị sĩ
DC Mỹ bảo đảm an toàn tuyệt đối. Trong chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971, khi
CSBV phản công với ít nhất 5 sư đoàn [binh đoàn 70, sư đoàn 304, 308, 320, và
2], trọng pháo và thiết giáp, chống lại vài tiểu đoàn dù VNCH bảo vệ cuộc triệt
thoái về nước, quân Mỹ án binh bất động bên này biên giới, chỉ hỗ trợ pháo binh
lai rai vì bị trói tay bởi luật Church-Cooper. Năm 1974, VNCH bất lực nhìn CSBV
chuyển quân và súng đạn ào ạt vào Nam VN qua đường mòn HCM. TT Nixon muốn đánh
bom, nhưng bị vướng xình lầy Watergate, không đủ hậu thuẫn chính trị để vượt
qua luật Church-Cooper. “Đương mòn” đã thành xa lộ nhờ các nghị sĩ DC Mỹ.
Tháng 6, 1970, Thượng Viện DC thông qua một tu chính Church-Cooper cấm
chính quyền Nixon không được chi một đồng nào cho cuộc chiến tại Căm-Pu-Chia,
cấm đánh bom xứ này luôn. Đến phiên các mật khu VC trên đất Căm-Pu-Chia được
Thượng Viện DC Mỹ bảo đảm an toàn tuyệt đối. VC di chuyển bộ tư lệnh từ “R” qua
Căm–Pu-Chia.
Năm 1972, vẫn nghị sĩ DC Frank Church ra dự luật cấm mọi chi tiêu liên
quan đến chiến tranh tại cả vùng Đông Nam Á, ngoại trừ trong mục đích rút quân.
Nhưng may mắn cho VNCH, quốc hội không đạt được đồng thuận, nên dự luật này
không thi hành được.
Một năm sau, 1973, lấy cớ Hiệp Định Paris đã ký, cũng TNS Church lại cho
thông qua luật mới xác nhận cắt hết mọi viện trợ quân sự cho Đông Nam Á. Lần
này được Hạ Viện DC thông qua luôn. Và được thi hành. Cũng năm 1973, quốc hội
thông qua War Power Act, Quyền Tham Chiến, bắt tổng thống phải xin phép quốc
hội nếu tham gia bất cứ cuộc chiến nào quá ba tháng.
Ông Frank Church, nghị sĩ DC của Idaho, là người có trách nhiệm lớn nhất
trong việc giết Nam VN.
Tháng Ba năm 1975, khi VC bắt đầu ào ào đổ quân dọc miền Trung, tiến về
Sàigòn, quốc hội DC bác đơn của TT Ford xin tháo khoán khẩn cấp 700 triệu viện
trợ quân sự đã được phê chuẩn từ lâu nhưng chưa xuất quỹ. Tháng Tư năm đó, khi
VC gõ cửa Sàigòn, quốc hội DC cũng bác luôn đơn xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu
để tăng cường bảo vệ thủ đô.
Nhìn vào diễn tiến trên, với các nỗ lực không ngừng nghỉ của khối dân cử
DC để ép từ TT Johnson đến TT Nixon rồi TT Ford phải chấm dứt sự can dự của Mỹ
vào cuộc chiến tại Nam VN bằng cách cắt tiền, ra luật cấm đoán đủ chuyện, làm
sao có thể nói TT Nixon là người chịu trách nhiệm về việc mất VNCH? Điều ngạc
nhiên đáng nói là việc ông đã cầm cự dai dẳng được 4 năm, vớt vát đến cùng,
trước khi ký Hiệp Định Paris.
Trên phương diện ngoại giao, sách lược của ông là làm sao tạo được chia
rẽ trong khối CS quốc tế giữa Liên Xô và Trung Cộng, để giảm hậu thuẫn của họ
đối với CSBV, hậu thuẫn tinh thần cũng như tiền bạc và súng đạn, rồi đích thân
ông đi nói chuyện trực tiếp với cả hai đối thủ để tìm giải pháp cho cuộc chiến.
Có nghiã là những nỗ lực của Kissinger-Nixon khi móc nối với Mạc Tư Khoa
và nhất là Bắc Kinh, phải nói là để tìm cách vớt vát, gỡ gạc được bao nhiêu hay
bấy nhiêu trước áp lực của khối phản chiến và quốc hội DC, chứ không phải là
chuyện đi đêm để bán đứng Nam VN cho TC.
Khi VNCH rơi vào tay CSBV, hàng triệu người dân miền Nam bỏ phiếu bằng
chân trốn chạy CS, cản trở và gây rối loạn các cuộc điều quân của các tướng Phú
và Trưởng, trong khi VC thẳng tay bắn đại bác vào cả dân lẫn quân ta, đưa đến
hàng trăm ngàn người chết trong các cuộc trốn chạy quân CSBV từ Cao Nguyên và
miền Trung. Ta thua. Sau 30-4, hàng trăm ngàn người bị đi tù cải tạo, hàng trăm
ngàn người khác chết trên Biển Đông. Phe cấp tiến DC và TTDC trắng mắt, tìm
cách chạy tội, thả lập luận Nixon bán đứng miền Nam cho TC. Thực tế là cánh cấp
tiến thiên tả trong đảng DC đã tập trung mọi nỗ lực chống phá việc Mỹ tham
chiến ngay từ những năm TT Johnson vừa đổ quân vào miền Nam, 1964-65. Tất cả
những tiếng nói chống đối ồn ào nhất như vợ chồng Jane Fonda/Tom Hayden, hay
Frank Church, hay Robert Kennedy, Eugene McCarthy, và sau đó George
McGovern,... đều thuộc đảng DC hết.
Ngay cả đến khi VC đe dọa chiếm hết miền Nam, khối DC cũng vẫn là khối
chống đối mọi biện pháp cứu nguy, thà chống mắt nhìn Miền Nam rơi vào tay CSBV
chứ không chịu chi thêm một xu viện trợ quân sự khẩn cấp do TT Ford xin. Ngay
cả việc nhận những người Việt nạn nhân CS vào tỵ nạn khi đó cũng bị khối DC
chống, trong đó nổi bật nhất có TNS Biden, TNS Kerry, thống đốc Brown, tất cả
đều thuộc đảng DC hết.
Công bằng mà nói, để mất nước là trách nhiệm của chính chúng ta trước
tiên, trước khi chúng ta xỉa tay đổ thừa người khác. Ta thua vì lãnh đạo dở, lệ
thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, vì hậu phương thiếu đoàn kết, vì chính sách
“dân chủ” nửa chừng xuân dung túng cho những phá rối của đám chính khách thời
cơ lực lượng cẳng giữa, hay đám nhạc sĩ, sinh viên phản chiến ngây ngô, linh
mục và sư sãi ôm mộng hão làm giáo chủ,... Tất cả chỉ khiến cho sự hy sinh của
người lính Cộng Hòa trở thành công dã tràng.
Hồ sơ VN còn quá nhiều bí ẩn chưa giải toả hết mà cũng có thể không bao
giờ có câu trả lời cuối cùng. Nhưng nhìn vào những diễn biến trên, trách nhiệm
của khối cấp tiến DC không thể chối cãi. Chẳng những đảng DC ép chính quyền
Nixon/Ford phải tháo chạy mà còn không cho chúng ta cơ hội chống đỡ khi cắt hết
tiền bạc và súng đạn để có thể tiếp tục cuộc chiến, rồi còn muốn đóng cửa không
cho chúng ta vào tỵ nạn.
TT Nixon đã từng thẳng tay thả bom Bắc Việt, tung quân qua đánh mật khu
VC bên Căm-Pu-Chia, bí mật thả bom xứ này mấy tháng ròng rã mà cả VC lẫn
Sihanouk đều không dám lên tiếng phản đối vì há họng mắc quai. Nếu không bị
quốc hội DC khoá tay, ai biết được ông sẽ đi xa tới đâu. Đổ bộ Vinh hay Hải
Phòng?
Các ông Nguyễn Tiến Hưng và Hoàng Đức Nhã đã nhiều lần kết án Kissinger
và Nixon đã ma-nớp đủ kiểu kể cả áp lực và lừa gạt TT Thiệu để rút ra khỏi Nam
VN, không sai. Nhưng có lẽ họ ở trong cuộc quá gần, quan hệ trực tiếp với
Kissinger và Nixon quá nhiều, chỉ nhìn thấy hai ông này mà không nhìn thấy cả
quốc hội và phong trào “phản chiến” bên Mỹ, nên không đánh giá đúng mức áp lực
trên đầu TT Nixon. Theo ông Nhã, TT Thiệu trách TT Nixon không giữ lời hứa sẽ
cứu VNCH, chỉ chứng tỏ lãnh đạo VNCH quả không hiểu gì hay không muốn hiểu
chính trị Mỹ, nhất là sau gần cả trăm biểu quyết của quốc hội và sau vụ Watergate.
CSVN huyênh hoang đấm ngực khoe công, thật ra chỉ thắng nhờ... ù lỳ, coi
rẻ mạng sống dân và bộ đội, chết bao nhiêu cũng bất cần để đám lãnh đạo chiếm
quyền. Tướng Westmoreland đã từng nói, trong quân đội Mỹ, nướng quân như Giáp
thì ông ta chưa lên được đại úy đã bị ra toà án quân sự rồi.
Từ phiá Mỹ, truyền thông mỵ dân, trí thức cấp tiến thiên tả, đảng DC yếu
đuối, đó chính là những thành phần chịu trách nhiệm lớn nhất cho cơn ác mộng 30
tháng 4 của chúng ta.
(07-05-17)Vũ Linh
*Mời quý anh chị đọc một
bài viết có một số ý kiến khác về ngày 30.4.1975, 304Đen đăng lại, xin tùy người
đọc nhận xét.
No comments:
Post a Comment