Vết Nám (Bài 22) Con heo đau tim
Giữa mùa hè năm 1980, “Trại
Đá” gần đầy tù cải tạo. Ngoài số tù bên Trại B chuyển qua còn có một số ở trại
“Vườn Đào” lên và một số ở Phước Long về.
Trong số Phước Long có danh hề
“Khá Nặng”. Sở dĩ gọi là Khá Nặng vì câu nói đùa của anh ấy.
Hôm đó chủ nhật, được nghỉ lao
động. Chúng tôi đang “vui chơi, tắm giặt, nghe đài” thì được lệnh ai nhà nào về
nhà nấy, cổng mỗi nhà đều bị khóa lại. Tù chỉ được quanh quẩn trong sân hay ở
trong nhà.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau
thì có đám tù mới tới, hỏi ra thì họ từ Phước Long về.
Năm 1977, có một đám trung úy,
thiếu úy, từ các trại Suối Máu, An Dưỡng, Hóc Môn, v.v… do quân đội Cộng Sản
quản lý đưa đi lao động ở Phước Long, làm “nhiệm vụ kinh tế”. Sau đó, một số ít
được tha. Số còn lại, giao cho Công An rồi họ được đưa về đây.
Khi đám tù rách rưới như ăn
mày, lếch thếch mang vác đồ đạc đi qua cái sân lớn để vào các dãy nhà phía sau.
Chúng tôi đứng sát cổng nhà để coi và tìm người quen.
Vài người nhận ra nhau, gọi
kêu ơi ới. Bỗng Khả Năng xuất hiện. Sau năm năm tù, trông anh ốm đi nhiều, dù
chưa bằng Phi Thoàn, cũng là danh hề thường đóng chung với anh. Thấy anh, chúng
tôi mừng rỡ gọi to: “Khả Năng! Khả Năng!” Đang vác một cái xắc ma-re đựng “tư
trang” khá nặng, anh cũng dừng lại, quay về phía chúng tôi, giướng mắt nhìn,
nói đùa:
– “Khá nặng rồi mấy anh ơi! Không còn Khả Năng nữa mà khá nặng!” (1)
Ý anh muốn nói ở tù như vậy cũng đã lâu, là án tù “khá nặng”. Nghe anh nói đùa
với giọng thảm, chúng tôi cùng cười!
Miền Nam hồi trước có nhiều danh hề: Thanh Việt, Thanh Hoài, Phi Thoàn, Khả
Năng, v.v…
Khả Năng và Phi Thoàn “trong hạn tuổi quân dịch” nên phải nhập ngũ. Đến 30
tháng Tư, Phi Thoàn chỉ mới được “loon” thượng sĩ, thuộc hàng hạ sĩ quan, khỏi
bị “tập trung cải tạo”. Khả Năng “loon” chuẩn úy nên “phải đóng tiền đi ở tù.”
Ít lâu sau, Khả Năng bị “biên chế” qua trại Cây, gia nhập đội Văn Nghệ của bầu
Trừ (Nguyễn Văn Trừ). Nhân dịp lễ lạc gì đó, đội Văn Nghệ tập tuồng cải lương
để trình diễn. Trong khi tập, Lâm, tên Công An (thường gọi “cán bộ Lâm”), trực
trại, tự dưng vào làm đạo diễn, buộc diễn viên phải làm như vầy, như kia. Người
đóng vai chú bộ đội thì vênh mặt lên, hùng dũng, kiêu hùng. Người đóng vai “tên
lính ngụy” thị hèn nhát, sợ hãi, run rẩy… Khả Năng bực mình cự lại tên cán bộ.
Tên nầy hăm dọa nhốt anh vào cát-xô. Chỉ hăm dọa thôi, sau đó, không thấy
chuyện gì xảy ra cho “anh hề”, anh được “bình an vô sự”..
Cũng mùa hè năm đó, chúng tôi
được tin có phái đoàn Liên Hợp Quốc đến thăm.
Trước đó, khi chúng tôi mới
qua trại A, đã có phái đoàn Cộng Sản ngoại quốc đến. Hôm đó cũng là ngày chủ
nhật, đang nghỉ ở nhà thì chúng tôi được lệnh vào hết trong nhà, khóa cửa lại,
không cho ai đứng ngoài sân. Cổng mỗi nhà cũng khóa lại.
Võ Phước Thọ nhanh trí, đoán
biết là có phái đoàn ngoại quốc tới, trong khi cán bộ chưa kịp khóa cổng thì
anh ta phóng ngay ra khỏi cổng, viết ngay trên đường đất mấy chữ “S.O.S”. Một
lúc thì có khoảng năm hay sáu người đi chậm chậm ngang cổng từng nhà. Tới cổng
nhà chúng tôi bị giam, – chúng tôi rình trong nhà – nhờ chúng tôi leo lên cao,
nhìn ra ngoài theo mấy cái cửa thông gió.
Trong phái đoàn có hai ba bà
đầm mắt xanh mũi lõ, có lẽ là người Nga hay Đông Âu và một anh chàng Nhật, còn
trẻ, da vàng mũi tẹt, khá lùn, và nói xí xô xí xào tiếng Nhật, tiếng Anh với
vài người khác trong đoàn. Anh chàng nầy thấy mấy chữ S.O.S do Võ Phước Thọ vẽ
trên đất bèn gọi mấy người kia tới xem, đưa máy hình lên chụp, xong bọn họ đi
ra cổng lớn. Sau đó, thì chúng tôi được “thả chuồng” – ra khỏi nhà, được ra
sân, chuyện trò –
Khoảng nửa tiếng sau, trung tá
Dziệt Cộng Trịnh Văn Thích, trại trưởng, vào đứng ngay cổng, nói chõ vào, giận
dữ:
– “Cái gì mà phải vẽ dấu hiệu cấp cứu! Anh nào vẽ? Anh nào vẽ?”
Y không đi một mình, có một Công An khác đi theo, hông đeo súng nhỏ, có lẽ để
bảo vệ y.
Trung tá Thích cũng chỉ đứng
ngay cổng nói chõ vào chớ không dám vào trong sân. Y coi tù đã mấy chục năm,
kinh nghiệm lắm. Vào sâu, lỡ tù trùm mền đánh cho thì sao?! Sau đó Công An quản
giáo có điều tra tìm người viết mấy chữ S.O.S. nhưng công cốc.
&
Bây giờ thì trại đông hơn trước nhiều. Lần nầy đến thăm là phái đoàn Liên Hiệp
Quốc. Mấy hôm trước thân nhân lên thăm, báo cho biết là phái đoàn Liên Hợp Quốc
đang thăm mấy trại ngoài bắc, ngoài trung, nên chúng tôi đoán chừng vậy.
Sáng hôm đó bỗng kẻng gọi tập
trung đi làm trễ.
Quá bảy giờ mà chưa nghe đánh kẻng như thường lệ. Vậy là anh em tù xôn xao.
Người ta nói to với nhau, có vẻ mừng: “Liên Hiệp Quốc tới! Liên Hiệp Quốc tới!”
Trong tâm trạng tuyệt vọng, như đang bị trôi giữa dòng nước lũ, vớ nhằm cộng
rều cũng tưởng như vớ được tấm ván. Không rõ phái đoàn của “ông già bất lực
Liên Hợp Quốc” có làm nên trò trống gì không, mà người ta cũng hy vọng vậy.
Chín giờ kẻng đánh, các đội
tập trung ở sân lớn chờ gọi đi. Bỗng có một đội trong đám Vườn Đào được gọi vào
nhà, biểu chờ lệnh. Thế rồi các đội khác bị gọi đi, ra khỏi trại. Có điều lạ,
cán bộ không gọi đội trưởng cho người đi nhận cuốc để cuốc đất như thường lệ.
Thông thường mỗi đội chỉ có
hai – có khi chỉ một – vệ binh cầm súng đi theo – “Để bảo vệ các anh vì sợ
đồng bào căm thù Mỹ Ngụy mà đánh các anh!” Cán bộ giải thích vậy! –
Bữa nay, mỗi đội có tới ba
hoặc bốn vệ binh đi theo “bảo vệ cải tạo viên” – Việt Cộng bao giờ nói nghe
cũng tình nghĩa dữ lắm! – Tất cả các đội đều được dẫn đi ngược vào phía sau
trại, sát bìa rừng. Vào đó, chúng tôi được ngồi chơi, không lao động, lao cải
gì hết! – Trưa, mỗi đội cử ba người – hai người về nhà bếp nhận bắp, một người
gánh nước uống cho bữa trưa.
Khoảng ba giờ chiều, được về
trại nghỉ! Đúng là một hôm “vui chơi” khỏe khoắn, khỏi cuốc đất, lại còn được
về sớm – thông thường thì năm giờ chiều mới về.
Về tới trại thì được “vui
chơi, tắm giặt, nghe đài”! Bữa nay khỏi lao động vì Công An dẫn tù đi trốn phái
đoàn Liên Hợp Quốc, sợ phái đoàn gặp tù, “mấy anh phát biểu linh tinh, không có
lợi cho cách mạng.” Cán bộ lại giải thích vậy.
Cuối cùng thì phái đoàn Liên Hợp Quốc chưa lên thăm trại được!
Bấy giờ anh em mới rõ thêm nhiều điều vui. Đội “Vườn Đào” được ở nhà là để “làm
cảnh”.
Những anh em đó được lệnh ở
nhà thay áo quần sạch sẽ, lành lặn, tập họp đi lên “lớp học tập”. Lớp là căn
phòng đầu hồi, có đặt hai dãy bàn, phủ khăn, chưng mỗi bàn hai bình bông. “Ăn
khoai mì mà chưng bông!”
Mấy ông vườn đào chia nhau
ngồi trên những cái băng gỗ hai bên bàn. Ngồi chờ lâu quá, chẳng ma nào tới,
“học viên” buồn ngủ, ngáp vặt, nói tục, và kháo chuyện bậy: “Ăn khoai mì mà
cũng bày đặt bình hoa!” hoặc “Học xong 10 bài từ đời nảo đời nào mà chưa mãn
khóa.” v.v… Xong rồi, được về sớm, lại “vui chơi, tắm giặt, nghe đài”, một ngày
khỏe re!
Nhà bếp, nằm bên cạnh cổng
vào, hôm đó được lệnh nấu cơm trắng thay vì khoai mì hay bắp hột. Nhưng vì phái
đoàn Liên Hợp Quốc không lên nên cơm ấy được lệnh mang ra cho cán bộ “ăn giùm”
để tỏ rõ lòng “cao thượng, không coi trọng” miếng ăn của Dziệt Cộng! Còn tù cải
tạo thì vẫn bổn cũ hằng ngày, soạn đi soạn lại: Một bữa khoai mì lát, một bữa
bắp hột!
Cũng nhắm mục đích cho buổi trình diễn thêm phần hấp dẫn, một con heo được dắt
từ khu chăn nuôi ra. Con heo được cột trước mái hiên nhà bếp, chờ tin phái đoàn
Liên Hợp Quốc chắc chắn sẽ lên thì mới làm thịt heo!
Phái đoàn Liên Hợp Quốc không
lên, heo lại được dẫn về chuồng: “Cho (heo) sống lại một ngày”
nữa, như tên một tác phẩm của Dương Hà. (Cho tôi sống lại một ngày)
Tối đó, đám tù cải tạo tập trung từng nhóm, uống nước trà, bàn bạc lung tung,
tham mưu đủ hạng. Có người cho rằng đám “Vườn Đào”, người Miền Nam, hiền hòa
hơn, không phát biểu lung tung, bạt mạng như đám Saigon nên được ở lại “làm
kiểng cho cách mạng”.
Con heo thì sau một ngày chờ
chết mà chưa chết, sợ quá nên hiện đang đau… bệnh tim, phải đưa đi cấp cứu. Chỉ
có một con heo mà đủ lời bàn của… Mao Tôn Cương. Tới 10 giờ tối, điện tắt, đi
ngủ.
Vậy mà nhiều người đoán đúng!
Sáng hôm sau, bảy giờ sáng, chưa có kẻng tập trung, có nghĩa lại chờ phái đoàn
Liên Hợp Quốc lên, lại được đem đi giấu, thêm một ngày nữa khỏi lao động, vào
rừng “vui chơi”, tụ nhau lại mà nói đùa, chiều về sớm, “tắm giặt, nghe đài”. Ai
nấy cười nói vui mừng xôn xao.
Hôm đó, cuối cùng phái đoàn
Liên Hợp Quốc lại cũng chưa lên. Trên đường về, bữa nay vui hơn hôm qua vì tù
cải tạo được nghỉ lao động, ngày mai lại cũng chuẩn bị đón phái đoàn Liên Hợp
Quốc nữa, khỏi cuốc đất thêm một ngày nữa. Tổng cộng là được ba ngày.
Trên đường vào trại, khi đội
của tôi đi ngang nhà bếp, lại nhằm lúc một anh tù cải tạo đội cấp dưỡng (nhà
bếp) đang dắt heo trả về lại chuồng. Lê Văn Y nghịch, tiện chân, đá vào mông
con heo một cái; heo kêu “éc”. Trần Nguyên Bình, đi bên cạnh, nói:
– “Đá nó tội mày!”
– “Tội chi nữa! Bữa nay không chết, mai cũng chết!”
Lương văn Lịch cười, nói to:
– “Hai ngày nay nó sợ quá, đau tim nặng lắm rồi! Không chừng đêm nay “qua đời”!
– “Nó có qua đời mày cũng chẳng được gì đâu. Bất quá miếng thịt bằng ngón tay
út.” Y nói.
Bỗng Nguyễn Quang Ngọc la to lên:
– “Con heo đau bệnh tim anh em ơi! “Không phải tui mấy ông ơi! Tui mới cưới vợ,
không phải tui mấy ông ơi!”
Cả đám cười ồ! Có người cười hô hố vì câu nhại đó!
Nguyên là hồi còn ở Trại Cây
(trại B), một hôm cán bộ dẫn đi xem phim Nguyễn Văn Trỗi, ra về, có một anh “tù
cải tạo” nguyên trước làm giám thị ở khám Chí Hòa, kể lại rằng hôm bắn Nguyễn
Văn Trỗi, anh ta có đi theo:
“Nó đâu có anh hùng như trong phim. Biết dẫn đi bắn, nó vừa đi vừa khóc: “Không
phải tui mấy ông ơi! Tui mới cưới vợ. Người ta cho tui tiền để tui cưới vợ mấy
ông ơi!”
Chuyện nầy anh em chuyền tai
nhau trong trại, nhiều người biết. Từ đó có nhiều người thường nhại câu “Không
phải tui mấy ông ơi!” để cười chơi mỗi khi bị cán bộ bắt vì ăn cắp củ khoai mì
hay trái bắp dấu trong lưng quần.
Ngày mai là ngày thứ ba, thế nào phái đoàn Liên Hợp Quốc cũng lên.
Chiều hôm đó, vài ba anh em
trong Hội Nhân Quyền của luật sư Trần Danh San bí mật họp nhau bàn chuyện ngày
mai làm thế nào có người ra gặp phái đoàn Liên Hợp Quốc, đưa thư khiếu nại. Nội
dung thư chỉ nói mấy điều quan trọng:
Một là, đây không phải là
trại học tập cải tạo. Học tập thì phải có ngày khai giảng, mãn khóa, còn ở
đây học đã lâu, đã năm năm nhưng không biết bao giờ mãn khóa, cho về.
Thứ hai, xác nhận đây là
trại tù khổ sai Cộng Sản. Tù thì cũng phải đưa ra tòa, phải có án, hết án
phải được tha về.
Thứ ba, đây là những tù
binh chiến tranh, binh lính, viên chức chế độ Saigon cũ. Tù binh thì phải
được đối xử theo Công ước Genève.
Tôi không nhớ ai là người viết tiếng Anh bức thư nầy, nhưng người chép ra giấy
là họa sĩ Hải. Anh nầy được tha sau đó có mấy tháng và được đi Pháp cùng gia
đình.
Dương Tiến Đông được anh em
trong nhóm Nhân Quyền chọn ra gặp phái đoàn. Dương Tiến Đông cũng tình nguyện
đảm nhận công việc nầy.
Đông tính nóng, hiếu động và
gan lì.
Anh em họp nhau bàn với Đông
là khi tới gần phái đoàn Liên Hợp Quốc, cứ tự động xông tới. Thằng cán bộ đi
theo sẽ không dám bắn. “Tụi nó không dám bắn người ngay trước mặt phái đoàn
Liên Hợp Quốc”. Anh em dặn Đông: “Rán mà chịu! Phái đoàn Liên Hợp Quốc
về rồi thì chúng nhốt mày vào “cát-xô” và chơi một đòn hội chợ bầm mình.”
Bọn cán bộ ở đây có thói quen
trả thù tù cải tạo, khi có anh em nào bị nhốt vào “cát xô” thì chiều hôm đó,
khi “trật tự” đem cơm ra cho người bị nhốt, bọn nó ba bốn đứa đánh đòn hội chợ
trong khi người tù cải tạo còn mang còng ở tay và chân còn bị cùm vào thanh sắt
ngang trên sàn, không có cách gì chống đỡ được.
Trưa hôm sau, khi còn đang ở trong bìa rừng thì Đông giả bộ đau bụng, xin về trại
lấy thuốc uống. Cán bộ quản giáo không cho về. Đông giả bộ xin đi cầu nhiều
lần. Anh ta nói với cán bộ: “Tui bị tiêu chảy đi re re! Kiểu nầy thì chẳng mấy
lúc người khô nước mà chết! Tui mà chết là cán bộ mang tiếng ác. Anh em họ cũng
khiếu nại cán bộ cho xem.”
Dọa cán bộ xong, anh ta giả bộ
nằm rên hừ hừ, than vãn đau quá! Mãi tới quá trưa, thấy anh ta đau, không chịu
ăn trưa, cán bộ quản giáo mới cho một vệ binh cầm súng đi theo, cho Đông về
trại trước. Gần tới trại, anh ta đi thật nhanh. Đông người cao, chân dài, đi
lẹ, anh vệ binh phải lết giò mới theo kịp.
Khi vừa tới góc bờ thành bên
tay phải quặt ra phía trước, Đông vừa thấy phái đoàn Liên Hợp Quốc đang lên xe.
Khoảng đường còn khá xa, Đông muốn chạy cho nhanh nhưng anh vệ binh chạy theo
gọi lại, mở cơ bẩm cho đạn lên nòng kêu rắc rắc. Đông vẫn cứ đi nhanh.
Khi Đông vừa tới cổng trại thì
đoàn xe phái đoàn Liên Hợp Quốc rời khỏi sân văn phòng trại. Đông tiếc hùi hụi,
về nhà nằm, anh ta không ngớt chưởi thề: “Thằng quản giáo Chinh cho tao về
trễ. Sớm hơn cỡ năm phút là tao đưa được lá thư cho Liên hiệp Quốc rồi. Đ. má!
Mất một dịp bằng vàng!”
hoànglonghải
(1)-Nghe nói sau khi được tha, khoảng năm 1982, danh hề Khả Năng vượt
biên bằng đường bộ, bị bắn chết. Không rõ phe nào giết ông!
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment