Tạp ghi những quặn đau tủi nhục
của Sài Gòn sau 1975 qua ngòi bút Duyên Anh
Ca là cái ca,
ai cũng biết. Ca nhôm, ca sắt, ca nhựa vẫn là ca. Cóng người miền Nam gọi là
lon. Kỳ thủy, hộp sữa bò đặc uống hết mở nắp vất đi, người miền Bắc gọi là cái ống
bơ. Có nơi gọi là ống bơ. Ống bơ dùng để đong gạo. Riết rồi, bất cứ một hộp sắt,
hộp thiếc nào to nhỏ, đều được gọi là ống bơ. Ống bơ rỉ thì chán lắm. Hát như ống
bơ rỉ!
Cái lon sữa bột Guigoz cũng là…ống bơ, là cóng bơ. Dưới chế-độ cộng-sản, vì toàn dân đói nên thiếu hơi, nhiều danh-từ được giản-lược half and half. Cóng bơ còn một tiếng cóng. Bơ ở thiên đường mù-mịt, bỏ bơ đi là đúng. Bỏ bơ là loại bỏ tư-bản, là chống đế-quốc, là vô-sản khoai sắn “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau” …Cái cóng đa-dụng và đa-năng ở trại lao-cải là cóng Guigoz.
Hãng chế-tạo sữa bột Guigoz đã đi vào lịch-sử đấu-tranh của hai miền Nam-Bắc. Trên thế-giới, có lẽ, chỉ có nước Việt Nam bốn nghìn năm văn-hiến giầu và nghèo bình-đẳng … lon Guigoz. Nhà nào cũng có lon Guigoz. Vì lon Guigoz bán ngoài thị-trường vỉa hè. Đựng đường, đựng mỡ, đựng bột thật an toàn. Đựng cà-phê thì khỏi lo bay mất hương thơm.
Thuở ta học đòi Mỹ, công-chức làm việc thông-tầm, lon Guigoz biến thành thứ gà-mèn lý-tưởng, đủ bữa cơm trưa , ăn ngay tại cơ- quan. Sau 30-4-1975, lon Guigoz đắt giá. Một cái trị-giá hai lá cờ đỏ sao vàng tặng thêm chân-dung Bác, Mác và Lê.
Lần đầu tiên trong lịch-sử cộng-sản, lon Guigoz hạ chủ-nghĩa và lãnh-tụ. Vì chủ-nghĩa và lãnh-tụ bắt quá nhiều tù. Và tù-nhân cần lon Guigoz làm cóng. Ca cóng, tôi không hiểu chính-xác xuất-xứ của nó. Người nói: Anh em cải-tạo miền Bắc đem về Nam. Kẻ bảo: Việt cộng nó gọi vậy mình hài hước gọi theo, riết đâm quen. Điều buồn cười là, khi nổi lửa nấu bếp: đa-số tù-nhân nấu bằng nồi. Vậy thì ca-cóng là một bí số- như TH6- là bí danh của Nấu Nướng, như Lý Thụy, Anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, là bí danh của Nguyễn Sanh Cuông.
Hạnh-phúc mà vô-sản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Liên xô sang đất nước tôi là gì? Hỏa-tiễn, súng đạn, giáo-điều mác-xít, lê-nin lỗi thời. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng tiêu-diệt 1 triệu dân Việt Nam mùa cải-cách ruộng đất năm 1956, có khả-năng nướng thiêu 1 triệu thanh niên miền Bắc dọc đường mòn Hồ Chí Minh và các chiến trường miền Nam.
Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng làm bé nhỏ cả dạ-dầy lẫn tim óc của dân miền Bắc. Nhưng, chủ-nghĩa bách-chiến bách-thắng ấy chưa giải-phóng nổi chế độ đổ thùng ở riêng thủ-đô Hà-nội “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Khi còn công-nhân vệ-sinh đặc-trách đổ thùng, còn phu đổ thùng, còn con người tăm-tối chui rúc vào cầu-tiêu vác những thùng phân đổi miếng cơm hẩm, chủ-nghĩa cộng-sản chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Trước cách-mạng 19-8-1945 , dân chúng Hà nội (2) đã chơi cái trò đại-tiện kiểu đại-tiện của tù-nhân ở các trại lao-cải. Dĩ nhiên, nhà xí thuộc phạm vi gia đình nên nó văn-minh hơn. Năm giờ sáng, các ông phu đổ thùng chở thùng mới vào thành phổ bằng đôi bồ có nắp đậy và gánh hai thùng phân ra tận ngoại-ô bán cho nông-dân.
Thuở ấy, làm nghề thầu phân béo bổ, lại không thất đức như thầu vé chợ. Nhà thầu thuê phu đổ thùng. Phân bắc quý lắm. Bởi vậy, có khối bà địa-chủ, khuyên vàng, xà-tích rủng-rỉnh mà dám xắn ống tay áo lên cao, đưa cánh tay trần chạm đáy thùng xia khoắng kỹ xem thùng xia nhiều giấy hay ít để định giá. Sau cách-mạng 19-8-1945, phu đổ thùng vẫn đeo nhãn hiệu phu đổ thùng. Mãi sau cuộc cải-cách ruộng đất 1956, vô-sản vùng lên dữ-dội thì phu đổ thùng hóa kiếp “công-nhân vệ-sinh đặc-trách” đổ thùng.
Phùng Quán tả sự ghê rợn của đổ thùng:
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xăn quá gối
Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Hà-nội từ 1973 đã được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Và, mặc dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng bằng mười năm xưa”, bi-cảnh đổ thùng còn tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự nghiệp đổ thùng của nhân-dân sống mãi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như “Bác Hồ vĩ-đại sống mãi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.
Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm Sàigòn (3) lại dám làm công-việc mà, đói rã họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có người không dám vác”? Nghe một vị thâm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-trình công-tác lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:
– Hay là ông thầy và tôi tình nguyện đổ thùng nhé!
– Cảm hứng nào thế?
– Mình ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Mình không dám ăn thì đi đổ vậy.
– Rất đúng.
Vị thẩm-phán nói tình-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu cam-go vô cùng. Nhờ đó, tôi tìm được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán anh-dũng đổ thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết trình về “triết học” Tam- túc cộng với Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược năm 1962 đã phán một câu chí-lý: “Người trí -thức muốn làm đẹp xã -hội. cần phải xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”.
Đã chẳng một trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi ăn-bẩn ! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị cộng-sản nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi phân tiểu đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ mình.
– Anh ạ. vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đã mua cái mặt nạ chống hơi ngạt gửi cho tôi.
– Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?
– Có!
– Rồi sao?
– Cán-bộ tịch thu.
– Vô lý!
– Vâng, thật vô lý. Cán-bộ bảo tôi thíếu thiện-chí…đổ thùng, chưa tiến-bộ còn nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.
Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị thẩm phán mà những ai đã ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.
Cái lon sữa bột Guigoz cũng là…ống bơ, là cóng bơ. Dưới chế-độ cộng-sản, vì toàn dân đói nên thiếu hơi, nhiều danh-từ được giản-lược half and half. Cóng bơ còn một tiếng cóng. Bơ ở thiên đường mù-mịt, bỏ bơ đi là đúng. Bỏ bơ là loại bỏ tư-bản, là chống đế-quốc, là vô-sản khoai sắn “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau” …Cái cóng đa-dụng và đa-năng ở trại lao-cải là cóng Guigoz.
Hãng chế-tạo sữa bột Guigoz đã đi vào lịch-sử đấu-tranh của hai miền Nam-Bắc. Trên thế-giới, có lẽ, chỉ có nước Việt Nam bốn nghìn năm văn-hiến giầu và nghèo bình-đẳng … lon Guigoz. Nhà nào cũng có lon Guigoz. Vì lon Guigoz bán ngoài thị-trường vỉa hè. Đựng đường, đựng mỡ, đựng bột thật an toàn. Đựng cà-phê thì khỏi lo bay mất hương thơm.
Thuở ta học đòi Mỹ, công-chức làm việc thông-tầm, lon Guigoz biến thành thứ gà-mèn lý-tưởng, đủ bữa cơm trưa , ăn ngay tại cơ- quan. Sau 30-4-1975, lon Guigoz đắt giá. Một cái trị-giá hai lá cờ đỏ sao vàng tặng thêm chân-dung Bác, Mác và Lê.
Lần đầu tiên trong lịch-sử cộng-sản, lon Guigoz hạ chủ-nghĩa và lãnh-tụ. Vì chủ-nghĩa và lãnh-tụ bắt quá nhiều tù. Và tù-nhân cần lon Guigoz làm cóng. Ca cóng, tôi không hiểu chính-xác xuất-xứ của nó. Người nói: Anh em cải-tạo miền Bắc đem về Nam. Kẻ bảo: Việt cộng nó gọi vậy mình hài hước gọi theo, riết đâm quen. Điều buồn cười là, khi nổi lửa nấu bếp: đa-số tù-nhân nấu bằng nồi. Vậy thì ca-cóng là một bí số- như TH6- là bí danh của Nấu Nướng, như Lý Thụy, Anh Ba, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Nguyễn Tất Thành, là bí danh của Nguyễn Sanh Cuông.
Hạnh-phúc mà vô-sản chủ-nghĩa đem từ thiên-đường Liên xô sang đất nước tôi là gì? Hỏa-tiễn, súng đạn, giáo-điều mác-xít, lê-nin lỗi thời. Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng tiêu-diệt 1 triệu dân Việt Nam mùa cải-cách ruộng đất năm 1956, có khả-năng nướng thiêu 1 triệu thanh niên miền Bắc dọc đường mòn Hồ Chí Minh và các chiến trường miền Nam.
Chủ-nghĩa cộng-sản có khả-năng làm bé nhỏ cả dạ-dầy lẫn tim óc của dân miền Bắc. Nhưng, chủ-nghĩa bách-chiến bách-thắng ấy chưa giải-phóng nổi chế độ đổ thùng ở riêng thủ-đô Hà-nội “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Khi còn công-nhân vệ-sinh đặc-trách đổ thùng, còn phu đổ thùng, còn con người tăm-tối chui rúc vào cầu-tiêu vác những thùng phân đổi miếng cơm hẩm, chủ-nghĩa cộng-sản chỉ được định giá như một thùng phân lúc nhúc ròi bọ.
Trước cách-mạng 19-8-1945 , dân chúng Hà nội (2) đã chơi cái trò đại-tiện kiểu đại-tiện của tù-nhân ở các trại lao-cải. Dĩ nhiên, nhà xí thuộc phạm vi gia đình nên nó văn-minh hơn. Năm giờ sáng, các ông phu đổ thùng chở thùng mới vào thành phổ bằng đôi bồ có nắp đậy và gánh hai thùng phân ra tận ngoại-ô bán cho nông-dân.
Thuở ấy, làm nghề thầu phân béo bổ, lại không thất đức như thầu vé chợ. Nhà thầu thuê phu đổ thùng. Phân bắc quý lắm. Bởi vậy, có khối bà địa-chủ, khuyên vàng, xà-tích rủng-rỉnh mà dám xắn ống tay áo lên cao, đưa cánh tay trần chạm đáy thùng xia khoắng kỹ xem thùng xia nhiều giấy hay ít để định giá. Sau cách-mạng 19-8-1945, phu đổ thùng vẫn đeo nhãn hiệu phu đổ thùng. Mãi sau cuộc cải-cách ruộng đất 1956, vô-sản vùng lên dữ-dội thì phu đổ thùng hóa kiếp “công-nhân vệ-sinh đặc-trách” đổ thùng.
Phùng Quán tả sự ghê rợn của đổ thùng:
Tôi đã gặp
Chị em công-nhân đổ thùng
Yếm rách chân trần
Quần xăn quá gối
Run lây-bẩy chui vào hầm xia tối
Vác những thùng phân
Ta thuê một vạn một thùng
Có người không dám vác
Hà-nội từ 1973 đã được mệnh-danh là “thủ-đô của phẩm-cách con người”. Và, mặc dù, chủ-tịch Hồ Chí Minh ba-hoa “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ xây-dựng bằng mười năm xưa”, bi-cảnh đổ thùng còn tiếp diễn và muôn đời tiếp nối. Sự nghiệp đổ thùng của nhân-dân sống mãi trong chủ-nghĩa cộng-sản Việt Nam như “Bác Hồ vĩ-đại sống mãi trong sự-nghiệp” đổ thùng của nhân-dân vậy.
Tôi không hiểu tại sao hai vị thẩm-phán của Toà Thượng-thẩm Sàigòn (3) lại dám làm công-việc mà, đói rã họng “Ta thuê một vạn một thùng, Có người không dám vác”? Nghe một vị thâm-phán có vợ bác-sĩ y-khoa thuyết-trình công-tác lao-động đổ thùng, Đằng Giao khoái quá, hỏi tôi:
– Hay là ông thầy và tôi tình nguyện đổ thùng nhé!
– Cảm hứng nào thế?
– Mình ngu, ở lại để đi tù là đáng ăn một thùng cứt.Mình không dám ăn thì đi đổ vậy.
– Rất đúng.
Vị thẩm-phán nói tình-nguyện đổ thùng sẽ bị nghi ngờ. Phải phấn-đấu cam-go vô cùng. Nhờ đó, tôi tìm được câu trả-lời tại sao hai vị thẩm-phán anh-dũng đổ thùng. Ông Trưởng Công Cừu thuyết trình về “triết học” Tam- túc cộng với Tam-giác cộng với Tam-nhân thành Nhân-vị ở một khoá học-tập Ấp Chiến Lược năm 1962 đã phán một câu chí-lý: “Người trí -thức muốn làm đẹp xã -hội. cần phải xông vào những nơi nhơ bẩn nhất để làm cho nó sạch-sẽ, thơm tho”.
Đã chẳng một trí-thức nào xông vào những nơi nhơ-bẩn mà chỉ thấy trí-thức xông vào những nơi ăn-bẩn ! Trí-thức, nhất là trí-thức khoa-bảng, vốn sợ khó, sợ khổ. Hôm nay bị cộng-sản nó cưỡng-bức lao-động, vẫn cố cách xoay sở chỗ nhàn-hạ, dẫu có bị ngửi phân tiểu đến điếc mũi hết ngửi nổi mùi da thịt của vợ mình.
– Anh ạ. vợ tôi sợ tôi chết khứu giác, đã mua cái mặt nạ chống hơi ngạt gửi cho tôi.
– Ông có đeo mặt nạ đổ thùng không?
– Có!
– Rồi sao?
– Cán-bộ tịch thu.
– Vô lý!
– Vâng, thật vô lý. Cán-bộ bảo tôi thíếu thiện-chí…đổ thùng, chưa tiến-bộ còn nặng đầu óc tiểu-tư-sản trí-thức.
Thôi, tôi quên cái cầu tiêu và sự tiến-bộ đổ thùng của hai vị thẩm phán mà những ai đã ở TH6A trước và sau tôi đều thuộc tên nhớ mặt.
Kỷ niệm Rừng Lá
vỏn vẹn hai câu chuyện tiếu lâm , hài ít ... bi nhiều , nghe kể.
Chuyện thứ nhất
Đội nông nghiệp trồng khoai, trồng sắn, trồng ngô mãi cũng chán. Đất khai thác nhiều nó mệt, thu hoạch bết bát. Một tù nhân đề nghị quản giáo:
– Cán bộ ơi, tại sao mình không trồng xa lát.
Quản giáo:
– Sẽ nghiên cứu trồng Xa nát.
Tù nhân:
– Nếu trồng xa lát, mình nên trồng thêm cây bíp tếch cán bộ ạ !
Quản giáo:
– Sẽ nghiên cứu trồng nuôn cây bíp tếch một nượt !
Chuyện thứ hai
Kẻng báo ngủ đã điểm. Vệ binh đi tuần quanh nhà. Một tù nhân cao hứng:
– Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.
Vệ binh nghe thấy, la hét:
– Anh nào vừa mới nói quỷ Nam, vua Bắc đấy ?
Im lặng. Vệ binh :
– Anh nào ? Quỷ Nam, vua Bắc, vua Nam, quỷ Bắc nà cái nghĩa ní gì ?
Im lặng. Vệ binh :
– Anh nào vừa nói ?
Im lặng. Vệ binh tức giận :
– Đội trưởng đâu ?
Đội trưởng :
– Có.
Vệ binh :
– Anh nào vưa nói ninh tinh náo nếu thế ?
Đội trưởng :
– Anh Trần Bình Trọng đấy, cán bộ ạ !
Vệ binh :
– Bảo anh Trần Bình Trọng sáng mai nàm kiểm điểm nộp cán bộ trực trại nhé !
Hai mẩu chuyện tiếu lâm lao cải trên, có thể là bịa đặt, có thể là không bịa đặt. Bịa đặt hay không bịa đặt thì cũng chỉ mục đích nói lên sự ngu dốt của cai tù, những ông thầy của trường học cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ông Hồ Chí Minh nói : « Trồng cây mất 10 năm, trồng người phải mất 100 năm ». Những con người ông hồ chí minh và chủ nghĩa Cộng Sản của ông đã trồng từ năm 1950 là năm Cộng Sản Việt Nam quy định thành phần, giai cấp và thực sự chuyên chế ra sao ?
Ba mươi năm trồng người, chủ nghĩa Cộng Sản và lãnh tụ vĩ đại của nó chỉ gặt được một thế hệ thanh niên ngu dốt đói khổ. Đói khổ nên môi thâm, người lùn tịp . Ngu dốt nên ngọng nghịu đòi trồng cây bíp tếch và bắt Trần Bình Trọng viết tự kiểm.
Người ta sẽ thù hận chủ nghĩa và lãnh tụ Cộng Sản hay thù hận những con người bị Cộng Sản và lãnh tụ làm cho đói khổ, ngu dốt ?
Câu hỏi đặt ra cho lương tri những người chống Cộng Sản .
Chuyện thứ nhất
Đội nông nghiệp trồng khoai, trồng sắn, trồng ngô mãi cũng chán. Đất khai thác nhiều nó mệt, thu hoạch bết bát. Một tù nhân đề nghị quản giáo:
– Cán bộ ơi, tại sao mình không trồng xa lát.
Quản giáo:
– Sẽ nghiên cứu trồng Xa nát.
Tù nhân:
– Nếu trồng xa lát, mình nên trồng thêm cây bíp tếch cán bộ ạ !
Quản giáo:
– Sẽ nghiên cứu trồng nuôn cây bíp tếch một nượt !
Chuyện thứ hai
Kẻng báo ngủ đã điểm. Vệ binh đi tuần quanh nhà. Một tù nhân cao hứng:
– Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.
Vệ binh nghe thấy, la hét:
– Anh nào vừa mới nói quỷ Nam, vua Bắc đấy ?
Im lặng. Vệ binh :
– Anh nào ? Quỷ Nam, vua Bắc, vua Nam, quỷ Bắc nà cái nghĩa ní gì ?
Im lặng. Vệ binh :
– Anh nào vừa nói ?
Im lặng. Vệ binh tức giận :
– Đội trưởng đâu ?
Đội trưởng :
– Có.
Vệ binh :
– Anh nào vưa nói ninh tinh náo nếu thế ?
Đội trưởng :
– Anh Trần Bình Trọng đấy, cán bộ ạ !
Vệ binh :
– Bảo anh Trần Bình Trọng sáng mai nàm kiểm điểm nộp cán bộ trực trại nhé !
Hai mẩu chuyện tiếu lâm lao cải trên, có thể là bịa đặt, có thể là không bịa đặt. Bịa đặt hay không bịa đặt thì cũng chỉ mục đích nói lên sự ngu dốt của cai tù, những ông thầy của trường học cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ông Hồ Chí Minh nói : « Trồng cây mất 10 năm, trồng người phải mất 100 năm ». Những con người ông hồ chí minh và chủ nghĩa Cộng Sản của ông đã trồng từ năm 1950 là năm Cộng Sản Việt Nam quy định thành phần, giai cấp và thực sự chuyên chế ra sao ?
Ba mươi năm trồng người, chủ nghĩa Cộng Sản và lãnh tụ vĩ đại của nó chỉ gặt được một thế hệ thanh niên ngu dốt đói khổ. Đói khổ nên môi thâm, người lùn tịp . Ngu dốt nên ngọng nghịu đòi trồng cây bíp tếch và bắt Trần Bình Trọng viết tự kiểm.
Người ta sẽ thù hận chủ nghĩa và lãnh tụ Cộng Sản hay thù hận những con người bị Cộng Sản và lãnh tụ làm cho đói khổ, ngu dốt ?
Câu hỏi đặt ra cho lương tri những người chống Cộng Sản .
Duyên Anh
No comments:
Post a Comment