Sunday, June 28, 2020

Vàm Cỏ Đông - Đoàn Xuân Thu


Vàm Cỏ Đông!
 
 
 

Ðường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho bắt đầu xây năm 1881. Mất khoảng 4 năm, cho tới ngày 20, tháng Bảy, năm 1885, chuyến xe lửa đầu tiên ‘đề pa’ từ ga Bến Thành Sài Gòn hụ còi rầm rầm, khạc lửa ra đàng mồm (vì lực chạy bằng máy hơi nước) về Mỹ Tho.
Tuy nhiên khi vào tới địa phận tỉnh Long An, vì hai con sông Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây, xe lửa phải dừng lại, rồi tách toa xe ra lên Bắc (phà) để qua sông.

Tháng Năm, năm 1886, hãng Eiffel của Pháp bắc cây cầu sắt Bến Lức qua sông Vàm Cỏ Ðông và cây cầu sắt Tân An qua sông Vàm Cỏ Tây. Vậy là xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho chạy thẳng bon không cần phải qua Bắc như trước.
Cầu sắt Tân An dốc rất cao, đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước, lực yếu vì chụm củi đun nước trong nồi ‘súp de’ (chaudière) sôi chưa kịp, thành ra có khi nó tuột dốc ngược lại phía sau cả trăm thước.  Sau đó lấy trớn lại, hì hụi ạch đụi tới ba bốn lần mới leo qua được cái cầu. Qua cầu rồi lại đổ dốc ào ào, chạy bon bon. Ngặt cái là ga Tân An lại cách chân cầu không bao xa nên mới có cái vụ: “Xe lửa chạy tới Tân An / Tốp máy chẳng kịp ngã ngang té nhào”

Từ những năm 1930s, đầu máy xe lửa từ hơi nước chuyển sang dầu ‘diesel’. Sài Gòn đi Mỹ Tho có 72 cây số nhưng có tới 17 ga vừa lớn vừa nhỏ nên xe lửa phải chạy mất 3 tới 4 tiếng đồng hồ, hành khách ngồi ‘ông cái mê’ là ‘ê cái mông’ luôn.
(Tui nhớ hồi nhỏ, khoảng 6, 7 tuổi gì đó, Tía tui thương đám con lóc nhóc của mình ở Mỹ Tho đèn ngọn tỏ ngọn lu nên dắt sắp nhỏ đi Sài Gòn coi đèn ngọn xanh ngọn đỏ. Lên xe lửa, tui đâu có ngồi để ‘ông cái mê’, ‘ê cái mông’ mà đứng nhìn qua khung cửa sổ để thấy một đoàn tàu đi nhả khói hai bên đường. Và cũng để thấy hàng cột mắc dây thép để truyền đi tín hiệu ‘morse’ nó rượt theo tui hoài. Khoái quá chừng hè!)

Ðến ngày Mùng Một, tháng Bảy năm 1958, đường xe lửa Sài Gòn Mỹ Tho nghỉ chạy, sau hơn 70 năm xình xịch chạy tới chạy lui..
Năm 1968, Mỹ đúc cầu Tân An và Bến Lức mới. Còn hai cây cầu sắt cũ nầy, năm 2004, CS nó tháo dỡ đem đi bán ve chai, đút túi cũng khá bộn tiền.

(Cái gì bán được là tụi nó bán hè. Cả nước nó còn bán được thì nhằm nhè chi hai cây cầu sắt cũ chớ?!)
Sông Vàm Cỏ chỉ dài có 35.5 km, chảy trong địa phận tỉnh Long An, nhưng có đến 3 tên gọi. Ðoạn gần ngã ba Bần Quỳ còn gọi là sông Xá Hương, đoạn giáp với sông Soài Rạp gọi là Vàm Bao Ngược.

Thuộc hệ thống sông Ðồng Nai, bắt nguồn từ Prey Veng bên Campuchia, sông Vàm Cỏ có khoảng hai chi lưu, bề ngang sông tương đối rộng là sông Vàm Cỏ Ðông và sông Vàm Cỏ Tây. Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây bắt tay ‘bông rua’ (bonjour), hợp lưu tại ngã ba Bần Quỳ (Tân Trụ). “Bần gie, bần ngã, bần quỳ. Sống mà chịu cảnh chia ly thêm buồn”
Rồi mới đây có một ông nhà văn quê ngay ở cái đất Long An nói: “Hồi nhỏ học bài trong sách Giáo khoa của VC tức lắm, tức cái khúc này nè: “Ở tận sông Hồng, em có biết. Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi với lòng tha thiết: Vàm Cỏ Ðông! Ơi Vàm Cỏ Ðông!”

Mắc cái giống gì phải lôi sông Hồng vô làm màu mới có thể nói tới Vàm Cỏ Ðông. Hồng Hà không đẹp, hiền hòa, thùy mị, diễm lệ có bằng sông Vàm Cỏ của tui đâu mà lôi nó vô chớ?
Tui cũng thông cảm với cái bức bối rồi tức tối của ông nhà văn, quê chính tại sông Vàm Cỏ nầy vì: “Quê hương mình đẹp hơn cả!”

Tui bèn lục coi đứa nào cả gan dám làm ông nhà văn nầy giận quá xá như vậy? Thì nó đây rồi. Ðó chính là nhà thơ VC (Cộng sản ở trong Nam) có bút hiệu là Hoài Vũ. Ông ‘ni’ là Tổng biên tập báo Văn nghệ giải phóng của ‘Vi Xi’ (VC) có mần bài thơ tựa là: ‘Nàng Thơm’. Rồi cả bọn thuộc cấp nịnh, xúm lại, áo thụng lạy nhau!
 “Nàng Thơm tên lúa hay tên em? Nghe dịu tâm hồn ngọt gió đêm…”

Kể rằng một cô gái thương một chàng trai nghèo khổ, hằng ngày vất vả lam lũ cấy cày mà vẫn đói rách. Ðêm đêm cô gái lặng lẽ ra ruộng dùng nước mắt của mình nhỏ xuống, mỗi cây lúa một giọt khiến ruộng lúa của chàng xanh tốt trở lại. Lạ kỳ thay, từ lúc trổ bông đến khi thành gạo nấu thành cơm đều rất thơm. Rồi Người ta dùng tên Thơm của cô gái cho giống lúa Nàng Thơm ở Chợ Ðào, quận Cần Ðước, tỉnh Long An.
Dĩ nhiên thơ là hư cấu, là đặt chuyện nói không thành có; có ít xít ra nhiều; tuy nhiên cũng phải tôn trọng sự thực một chút đi. Chớ viết tào lao bí đao, tưởng tượng như tưởng voi, như vầy là coi không có đặng.

Vì ngoài giống lúa Nàng Thơm, gạo nấu cơm ăn nó thơm; còn biết bao nhiêu giống lúa có cả đống tên na ná như: “Nàng Bè, Nàng Co, Nàng Cóc,  Nàng Ếch,  Nàng Gồng, Nàng Quớt… thì viết như vậy quả là trớt quớt!
o O o

Hoài Vũ tên thật là Nguyễn Ðình Vọng, sinh năm 1935, dân Quảng Ngãi chớ không phải chánh gốc sanh đẻ lớn lên bên dòng sông Vàm Cỏ, tất nhiên là ổng mần thơ rất bá láp bá xàm, nhứt là hai bài: ‘Vàm Cỏ Ðông’ và ‘Anh ở đầu sông em cuối sông’.
“Vàm Cỏ Ðông, ơi hỡi dòng sông. Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng…”

Con sông Vàm Cỏ Ðông có cây cầu Bến Lức bắc qua, tui từng qua lại cả trăm lần, làm cái quái gì có nước xanh biêng biếc bao giờ? Nước nó màu vàng quạch vì chở nặng phù sa nên màu nước như sương sa mình ăn với dầu chuối hồi nhỏ vậy.
Rồi: “Vàm Cỏ Ðông ơi hỡi dòng sông. Có anh du kích dũng cảm kiên cường. Lẩn ánh trăng vàng băng lửa đạn qua sông…”

Dũng cảm nầy là dũng cảm kiểu giành ngu hết ráo không chừa cho ai ngu với.
Trăng vàng là trăng rằm, trăng mười sáu, đêm nhưng trời sáng trưng như ban ngày. Rồi lính nó bắn ào ào toàn lửa đạn mà chú mầy dám lội qua sông là Há Bá rước chú mầy đi ăn đám giỗ.

Chắc hổng có ai dám vạch ra và chỉ rõ cái tầm phào nầy nên ông Hoài Vũ hăng tiết vịt, chơi thêm bài nữa là: “Anh ở đầu sông, em cuối sông!” được Phan Huỳnh Ðiểu (1924- 2015) phổ nhạc.

“Anh ở đầu sông em cuối sông. Uống chung dòng nước Vàm Cỏ Ðông. Thương nhau đã chín ba mùa lúa. Chưa ngày gặp lại nhớ mênh mông…”
Sau nầy, được bồi bút quốc doanh phỏng vấn, Hoài Vũ cho biết là có em Bảy Nhàn nào đó từ thành thoát ly ra khu đi học mần văn, mần thơ cách mạng. Thấy em hơ hớ xuân thì nên ông thèm nhểu nước miếng bèn ‘chỉ đạo’ rồi ‘chỉ đại’ em Bảy Nhàn nầy. Hoài Vũ mần bài thơ nầy cho em Bảy Nhàn đọc được để hiểu được tấm lòng (thòng) của ‘qua’ đây.

Làm thầy dạy viết văn, mần thơ cách mạng mà đi dê, đi dụ dỗ học trò thì bậy bạ quá!
Cái bố láo, bố lếu thứ hai là ông Hoài Vũ tựa theo ý bài thơ, là nói lịch sự, còn nói ‘trần trắng trợn’ thì ông chôm từ bài ‘Trường Tương Tư’ của Lương Ý Nương (907- 960) bên Tàu:

“Quân tại Tương giang đầu. Ngã tại Tương giang vĩ. Tương tư bất tương kiến, Ðồng ẩm Tương giang thủy”
“Chàng ở đầu sông Tương. Thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau không gặp mặt. Cùng uống nước sông Tương”

Ông ‘thần’ nầy chỉ có cái việc là thay tên sông Tương bằng Vàm Cỏ Ðông (là của nó thành của tao). He he!
Nhưng bài thơ ‘Trường Tương Tư’ của Lương Ý Nương hay hơn nhiều. Hay ở chỗ tựa bài thơ: ‘Tương tư’ là nhớ nhau . Trường là ‘dài’, nên nhớ nhau hoài. Còn con sông tên là Tương Giang, tình như nước của cả một dòng sông là nhớ nhiều quá xá!

Như thế bài thơ: ‘Anh ở đầu sông em cuối sông’ chỉ là một bài thơ cọp dê ý của Tàu Phù, vừa tán gái vừa quánh giặc, (cho đúng đường lối của đảng), thì có hay ho gì mà khoe chớ?
Kết luận: “Thôi đi mấy cha! Dóc vừa vừa phải phải thôi!”

Đoàn Xuân Thu
DXT
Nguồn: https://baotreonline.com/van-hoc/phiem/vam-co-dong.baotre

304Đen – Llttm - dsc

No comments: