Vàm Cỏ
Đông!
Ðường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho bắt đầu xây năm 1881.
Mất khoảng 4 năm, cho tới ngày 20, tháng Bảy, năm 1885, chuyến xe lửa đầu tiên
‘đề pa’ từ ga Bến Thành Sài Gòn hụ còi rầm rầm, khạc lửa ra đàng mồm (vì lực
chạy bằng máy hơi nước) về Mỹ Tho.
Tuy nhiên khi vào tới địa phận tỉnh Long An, vì hai
con sông Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây, xe lửa phải dừng lại, rồi tách toa xe ra
lên Bắc (phà) để qua sông.
Tháng Năm, năm 1886, hãng Eiffel của Pháp bắc cây
cầu sắt Bến Lức qua sông Vàm Cỏ Ðông và cây cầu sắt Tân An qua sông Vàm Cỏ Tây.
Vậy là xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho chạy thẳng bon không cần phải qua Bắc như trước.
Cầu sắt Tân An dốc rất cao, đầu máy xe lửa chạy
bằng hơi nước, lực yếu vì chụm củi đun nước trong nồi ‘súp de’ (chaudière) sôi
chưa kịp, thành ra có khi nó tuột dốc ngược lại phía sau cả trăm thước.
Sau đó lấy trớn lại, hì hụi ạch đụi tới ba bốn lần mới leo qua được cái cầu.
Qua cầu rồi lại đổ dốc ào ào, chạy bon bon. Ngặt cái là ga Tân An lại cách chân
cầu không bao xa nên mới có cái vụ: “Xe lửa chạy tới Tân An / Tốp máy chẳng
kịp ngã ngang té nhào”
Từ những năm 1930s, đầu máy xe lửa từ hơi nước
chuyển sang dầu ‘diesel’. Sài Gòn đi Mỹ Tho có 72 cây số nhưng có tới 17 ga vừa
lớn vừa nhỏ nên xe lửa phải chạy mất 3 tới 4 tiếng đồng hồ, hành khách ngồi
‘ông cái mê’ là ‘ê cái mông’ luôn.
(Tui nhớ hồi nhỏ, khoảng 6, 7 tuổi gì đó, Tía tui
thương đám con lóc nhóc của mình ở Mỹ Tho đèn ngọn tỏ ngọn lu nên dắt sắp nhỏ
đi Sài Gòn coi đèn ngọn xanh ngọn đỏ. Lên xe lửa, tui đâu có ngồi để ‘ông cái
mê’, ‘ê cái mông’ mà đứng nhìn qua khung cửa sổ để thấy một đoàn tàu đi nhả
khói hai bên đường. Và cũng để thấy hàng cột mắc dây thép để truyền đi tín hiệu
‘morse’ nó rượt theo tui hoài. Khoái quá chừng hè!)
Ðến ngày Mùng Một, tháng Bảy năm 1958, đường xe lửa
Sài Gòn Mỹ Tho nghỉ chạy, sau hơn 70 năm xình xịch chạy tới chạy lui..
Năm 1968, Mỹ đúc cầu Tân An và Bến Lức mới.
Còn hai cây cầu sắt cũ nầy, năm 2004, CS nó tháo dỡ đem đi bán ve chai, đút túi
cũng khá bộn tiền.
(Cái gì bán được là tụi nó bán hè. Cả nước nó còn bán
được thì nhằm nhè chi hai cây cầu sắt cũ chớ?!)
Sông Vàm Cỏ chỉ dài có 35.5 km, chảy trong địa phận
tỉnh Long An, nhưng có đến 3 tên gọi. Ðoạn gần ngã ba Bần Quỳ còn gọi là sông
Xá Hương, đoạn giáp với sông Soài Rạp gọi là Vàm Bao Ngược.
Thuộc hệ thống sông Ðồng Nai, bắt nguồn từ Prey
Veng bên Campuchia, sông Vàm Cỏ có khoảng hai chi lưu, bề ngang sông tương đối
rộng là sông Vàm Cỏ Ðông và sông Vàm Cỏ Tây. Vàm Cỏ Ðông và Vàm Cỏ Tây bắt tay
‘bông rua’ (bonjour), hợp lưu tại ngã ba Bần Quỳ (Tân Trụ). “Bần gie, bần
ngã, bần quỳ. Sống mà chịu cảnh chia ly thêm buồn”
Rồi mới đây có một ông nhà văn quê ngay ở cái đất
Long An nói: “Hồi nhỏ học bài trong sách Giáo khoa của VC tức lắm, tức cái khúc
này nè: “Ở tận sông Hồng, em có biết. Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh
mãi gọi với lòng tha thiết: Vàm Cỏ Ðông! Ơi Vàm Cỏ Ðông!”
Mắc cái giống gì phải lôi sông Hồng vô làm màu mới
có thể nói tới Vàm Cỏ Ðông. Hồng Hà không đẹp, hiền hòa, thùy mị, diễm lệ có
bằng sông Vàm Cỏ của tui đâu mà lôi nó vô chớ?
Tui cũng thông cảm với cái bức bối rồi tức tối của
ông nhà văn, quê chính tại sông Vàm Cỏ nầy vì: “Quê hương mình đẹp hơn cả!”
Tui bèn lục coi đứa nào cả gan dám làm ông nhà văn
nầy giận quá xá như vậy? Thì nó đây rồi. Ðó chính là nhà thơ VC (Cộng sản ở
trong Nam) có bút hiệu là Hoài Vũ. Ông ‘ni’ là Tổng biên tập báo Văn nghệ giải
phóng của ‘Vi Xi’ (VC) có mần bài thơ tựa là: ‘Nàng Thơm’. Rồi cả bọn thuộc cấp
nịnh, xúm lại, áo thụng lạy nhau!
“Nàng Thơm tên lúa hay tên em? Nghe dịu tâm
hồn ngọt gió đêm…”
Kể rằng một cô gái thương một chàng trai nghèo khổ,
hằng ngày vất vả lam lũ cấy cày mà vẫn đói rách. Ðêm đêm cô gái lặng lẽ ra
ruộng dùng nước mắt của mình nhỏ xuống, mỗi cây lúa một giọt khiến ruộng lúa
của chàng xanh tốt trở lại. Lạ kỳ thay, từ lúc trổ bông đến khi thành gạo nấu
thành cơm đều rất thơm. Rồi Người ta dùng tên Thơm của cô gái cho giống lúa
Nàng Thơm ở Chợ Ðào, quận Cần Ðước, tỉnh Long An.
Dĩ nhiên thơ là hư cấu, là đặt chuyện nói không
thành có; có ít xít ra nhiều; tuy nhiên cũng phải tôn trọng sự thực một chút
đi. Chớ viết tào lao bí đao, tưởng tượng như tưởng voi, như vầy là coi không có
đặng.
Vì ngoài giống lúa Nàng Thơm, gạo nấu cơm ăn nó
thơm; còn biết bao nhiêu giống lúa có cả đống tên na ná như: “Nàng Bè, Nàng Co,
Nàng Cóc, Nàng Ếch, Nàng Gồng, Nàng Quớt… thì viết như vậy quả là
trớt quớt!
o O o
Hoài Vũ tên thật là Nguyễn Ðình Vọng, sinh năm
1935, dân Quảng Ngãi chớ không phải chánh gốc sanh đẻ lớn lên bên dòng sông Vàm
Cỏ, tất nhiên là ổng mần thơ rất bá láp bá xàm, nhứt là hai bài: ‘Vàm Cỏ Ðông’
và ‘Anh ở đầu sông em cuối sông’.
“Vàm Cỏ Ðông, ơi hỡi dòng sông.
Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng…”
Con sông Vàm Cỏ Ðông có cây cầu Bến Lức bắc qua,
tui từng qua lại cả trăm lần, làm cái quái gì có nước xanh biêng biếc bao giờ?
Nước nó màu vàng quạch vì chở nặng phù sa nên màu nước như sương sa mình ăn với
dầu chuối hồi nhỏ vậy.
Rồi: “Vàm Cỏ Ðông ơi hỡi dòng sông. Có anh du
kích dũng cảm kiên cường. Lẩn ánh trăng vàng băng lửa đạn qua sông…”
Dũng cảm nầy là dũng cảm kiểu giành ngu hết ráo
không chừa cho ai ngu với.
Trăng vàng là trăng rằm, trăng mười sáu, đêm nhưng
trời sáng trưng như ban ngày. Rồi lính nó bắn ào ào toàn lửa đạn mà chú mầy dám
lội qua sông là Há Bá rước chú mầy đi ăn đám giỗ.
Chắc hổng có ai dám vạch ra và chỉ rõ cái tầm phào nầy
nên ông Hoài Vũ hăng tiết vịt, chơi thêm bài nữa là: “Anh ở đầu sông, em cuối
sông!” được Phan Huỳnh Ðiểu (1924- 2015) phổ nhạc.
“Anh ở đầu sông em cuối sông. Uống chung dòng nước
Vàm Cỏ Ðông. Thương nhau đã chín ba mùa lúa. Chưa ngày gặp lại nhớ mênh mông…”
Sau nầy, được bồi bút quốc doanh phỏng vấn, Hoài Vũ
cho biết là có em Bảy Nhàn nào đó từ thành thoát ly ra khu đi học mần văn, mần
thơ cách mạng. Thấy em hơ hớ xuân thì nên ông thèm nhểu nước miếng bèn ‘chỉ
đạo’ rồi ‘chỉ đại’ em Bảy Nhàn nầy. Hoài Vũ mần bài thơ nầy cho em Bảy Nhàn đọc
được để hiểu được tấm lòng (thòng) của ‘qua’ đây.
Làm thầy dạy viết văn, mần thơ cách mạng mà đi dê,
đi dụ dỗ học trò thì bậy bạ quá!
Cái bố láo, bố lếu thứ hai là ông Hoài Vũ tựa theo
ý bài thơ, là nói lịch sự, còn nói ‘trần trắng trợn’ thì ông chôm từ bài
‘Trường Tương Tư’ của Lương Ý Nương (907- 960) bên Tàu:
“Quân tại Tương giang đầu. Ngã
tại Tương giang vĩ. Tương tư bất tương kiến, Ðồng ẩm Tương giang thủy”
“Chàng ở đầu sông Tương. Thiếp ở cuối sông Tương.
Nhớ nhau không gặp mặt. Cùng uống nước sông Tương”
Ông ‘thần’ nầy chỉ có cái việc là thay tên sông
Tương bằng Vàm Cỏ Ðông (là của nó thành của tao). He he!
Nhưng bài thơ ‘Trường Tương Tư’ của Lương Ý Nương
hay hơn nhiều. Hay ở chỗ tựa bài thơ: ‘Tương tư’ là nhớ nhau . Trường là ‘dài’,
nên nhớ nhau hoài. Còn con sông tên là Tương Giang, tình như nước của cả một
dòng sông là nhớ nhiều quá xá!
Như thế bài thơ: ‘Anh ở đầu sông em cuối sông’ chỉ
là một bài thơ cọp dê ý của Tàu Phù, vừa tán gái vừa quánh giặc, (cho đúng đường
lối của đảng), thì có hay ho gì mà khoe chớ?
Kết luận: “Thôi đi mấy cha! Dóc vừa vừa phải phải
thôi!”
Đoàn Xuân Thu
DXTNguồn: https://baotreonline.com/van-hoc/phiem/vam-co-dong.baotre
304Đen – Llttm - dsc
No comments:
Post a Comment