Ngựa và… thẳng
ruột ngựa!
Ngựa
không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày.
Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo
mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi
đừng nói nữa tao thèm!
Nguyễn
Dư
Tuy
vậy, ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt.
Thần
thoại của ta có cậu bé làng Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười,
trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu nước, bèn vươn vai hoá
thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con ngựa sắt để đi dẹp giặc
Ân. Giặc tan…
Áo
nhung cởi lại Linh-san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình
ảnh đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa
sắt bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành
động… như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ.
Tấu lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục
truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi
không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì
có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về
đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành
Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần,
Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa
ngự trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me,
hốc đá ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu
quận. Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ
ngày nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình,
nội tạng của ngựa.
Xưa
kia, ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến
toà án), thì sẽ được biết cái vành móng ngựa. Vành
bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt đóng dưới
móng chân ngựa ( fer à cheval). Bị can đứng trong
vành nghe quan toà buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng
ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được dùng.
Mấy
ông lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái
mùa đông rét mướt, nhiều mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm.
Cái màu xanhlá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như quần
áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời tây
cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng hiểu.
Một
dạo, thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court).
Mái tóc chỉ còn như cái móng chân (sabot) ngựa.
Gọi là đầu móng ngựa.
Vào
khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô cột mớ tóc thề thành cái đuôi
ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê ly đời ta!
Bên
cạnh ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng
ngày, phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có
con mang vẻ đẹp oai hùng:
– Áo
chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có
con đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút:
–
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có
con hay tự hào, tự tôn:
Ớ!
nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa? ( Lục súc tranh công )
Ngựa
khoe cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền.
Không biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người
nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục.
Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược
lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu
rằng: “Hổ phận ngu si,
Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông” (Nhị độ mai)
(Khuyển mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa,
mến chủ).
Tái
sinh chưa dứt hương thề
Làm thântrâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo
thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì
chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để
trả cho hết nợ).
Có
con xả thân vì đại nghĩa:
– Năm
1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai
tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn
thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có
kẻ bỏ trốn… (Lam Sơn thực lục).
Có Con ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956)
chết thảm thương.
Ngoài
ra, bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không? Ngựa cũng có vấn đề
à?
Ta có
thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng…
khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay
hoay tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn,
điển tích nào có thành ngữ này.
– Tự vị Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
– Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc
(1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực – Lương Văn
Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
– Việt
Nam tự điển của
hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
– Từ
điển tiếng Việt của
Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ
Việt Nam của Nguyễn Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành
ngữ Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa
là: Nghĩ thế nào thì nói ra như thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và
thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn, bộc trực.
Nói
gọn lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế
nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa,
ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng
vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng
ta có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa (Hoàng Phê, thí dụ
của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái
không thẳng là một điều chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn
lại hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin
bàn về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ
trước đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần:Thẳng / ruột ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ
pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một điều là… thẳng như cái không thẳng.
Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ
còn một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
– Chia cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa
gì! Thẳng ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên! Thẳng ruột / ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt
Nam!
– Dạ,
đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là
tiếng Việt của người Việt!
1) Thẳng ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực
trường nghĩa là: Ruột gan ngay thẳng.
Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra ngay, tuồng như đại
trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào Duy Anh).
Thực
tế thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy
Anh cũng nói rõ là tuồng như đại
trường thẳng tuột.
Thẳng
ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa
bóng là ruột gan ngay thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói
thẳng ra như thế, không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được
dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn
đề thẳng như.
Mấy
cách giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ
giải nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất
từ ngựa.
2) Ngựa của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa
này không biết kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng
Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn
chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống
cái) và Cavallo (giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ
của tiếng Pháp như cavalerie (kị
binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy
ông đi tán gái), cavalière (được Việt hoá
thành ca-ve, gái nhảy), v.v.
Vòng
vo một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy
em ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve
bị biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị
dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa
cái) được dùng để ám chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao
lâu ngựa của tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta.
Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào
sách vở.
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của có
câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng
mắng).
Từ
điển Génibrel có Nết ngựa: ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs légères, débauchée). Đĩ ngựa: đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các
bà thời thượng trong Nam bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm
1931, Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa,
kể chuyện đêm giao thừa, anh phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa
người ám
chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là
anh phu kéo xe tay. Hai loại ngựa đặc sản
của thời Pháp thuộc.
Rốt
cuộc, Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng
dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói thật như
gái điếm.
–
Trời đất quỷ thần ơi! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
– Còn
lâu! Thẳng ruột ngựa phải được ” hiểu ngầm ” theo một
cách khác!
–
Cách nào? Đính chánh lẹ lên.
Trước
khi trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người
xưa có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn,
nhất là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không
có lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một cách nói châm biếm,
hài hước, tương tự như Vè nói ngược:
Bong
bóng thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao
giờ cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha
ra ngoài đồng…
Ai
không thích “giễu dở” thì nói: Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu
nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Người
xưa quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay
thật.
Nghe
các em “giãi bày tâm sự” thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ
bịnh, một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi
gia đình. Em mới “đi” được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong
nhã…
Anh
nghe mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng
ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay
bướm, lang bang phải coi chừng “ruột gan ngay thẳng… của ca-ve”. Chẳng khác gì
người miền Nam ngày trước khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của
mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái
điếm lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà. Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo
lối nói châm biếm.
Thẳng
ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba
nền văn hoá Tàu, Tây và Ta.Ý nghĩa quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu
sai.
– Tôi
bấy giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi
không bị hạn gì cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh hùng) (*).
– Anh
Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng
ruột ngựa nên anh sợ (Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng)
(*).
Nhà
văn muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người
hiểu là anh cán bộ và cô Út đang bị chê.
Nói
thẳng nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc
rối quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn
Dư
(*) theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực – Lương Văn
Đang.
304Đen – llttm - sgtc
No comments:
Post a Comment