Thầy Năm Chén
Sau trận Tết Mậu Thân (1968) ở Huế, gia đình
ông thầy thuốc Nam đó chết hết, chỉ còn lại có hai cha con. Nhà cửa tiêu tan, sự
nghiệp tiêu tan, thầy không muốn ở lại cái vùng đất mà thầy cho là còn gần với
quân xâm lăng miền Bắc. Thầy gạt nước mắt, dẫn thằng con trong tuổi quân dịch
đi vô Nam. Thầy nói: “Ở trong nớ tuy tứ cố vô thân nhưng chắc chắn là mình được
yên ổn lâu dài”.
Trên chuyến xe vào Sài Gòn, ông bắt chuyện với một
sư ông lên xe ở trạm Nha Trang. Thì ra sư ông cũng là thầy thuốc Nam nữa. Nhờ vậy,
tâm sự được dàn trải dễ dàng. Sư ông trụ trì ở chùa Thiền Lâm Gia Định, vừa làm
Phật sự vừa bắt mạch vừa bốc thuốc. Sư ông nói:
– Tôi làm không xuể.
– Bịnh nhân có đông không ?
– Tùy mùa. Nói chung chung thì cũng nhiều. Với
tôi, Phật sự là chánh, còn chữa bịnh là phụ. Vì không đủ thời giờ nên tôi đành
từ chối bịnh nhân… Thấy cũng tội nghiệp !
Khi sư ông biết tình cảnh của cha con ông thầy
thuốc Nam, sư đề nghị:
– Nếu ông anh không chê thì tôi xin mời ông anh
về tá túc với chúng tôi. Mình sẽ phụ nhau chữa bịnh cho đồng bào thì thật là
hoan hỉ.
Trong cảnh “tứ cố vô thân”, đề nghị của sư ông
như một cái phao. Ông thầy nhận lời và cám ơn rối rít. Sư ông nói:
– Đời sống trong chùa đạm bạc như thế nào chắc
ông anh cũng đoán biết, không cần phải giải bày. Duy chỉ có điều này là cần nói
rõ: bịnh nhân đến chùa phần đông là đồng bào nghèo, mà chùa thì không có khả
năng tài chánh để chữa thí, vì vậy, mình chỉ lấy tiền thuốc thôi.
– Ngoài nớ, gặp bịnh nhân nghèo, tôi cũng làm
như rứa. Đôi khi còn không lấy tiền.
– A di đà Phật.
… Chùa Thiền Lâm nằm giữa một nghĩa trang vây
quanh bởi một bức tường rào xây bằng gạch bờ-lóc không có tô và cũng không quét
vôi. Nhiều nơi tường bị nứt dài, gạch bể lỗ đỗ. Dọc theo mặt tiền là mấy “tiệm”
hớt tóc .
Không biết gọi là gì cho đúng. Mấy anh thợ hớt
tóc, trước đây hớt tóc dạo, bây giờ… đóng đô ở đó bằng cách đóng lên tường mấy
cây đinh rồi móc tấm ni-lông hay tấm vải trắng cỡ thước rưỡi bề ngang, có mấy
cây trúc chống căng ra như một mái nhà. Bên dưới, đặt hai ghế đẩu – một cho
khách, một cho thợ hớt tóc và trên tường treo ngang tầm mắt người ngồi ghế đẩu
là tấm kiếng cỡ hai trang giấy lớn. Trên tường cũng có viết nguệch ngoạc bằng
sơn dầu các kiểu tóc và giá cả. Chiều, họ gỡ hết đem đi. Sáng, họ trương lên,
ngồi đánh cờ tướng với nhau hay hút thuốc rung đùi đợi khách !.
Cổng vào nghĩa trang, bằng sắt rỉ sét xiêu vẹo,
mang một bảng gỗ đã mục nhiều nơi, lớp sơn tróc rơi để lòi sớ gỗ, nhưng cũng
còn vừa đọc vừa… đoán ra được hàng chữ: “Nghĩa trang Hội Tương tế X…”. Từ ngoài
ngỏ chạy thẳng vô chùa là đường đất đỏ nằm giữa hai hàng cây điệp. Vây quanh
chùa là mả thấp mả cao xếp hàng dài dài.
Chùa là một ngôi nhà cất theo kiểu xưa: nền cao,
nóc bánh ít, cột kèo gỗ, ba gian hai chái, hàng ba thật rộng. Không có mái cong
chạm rồng chạm phụng gì hết. Mới nhìn tưởng là nhà ở chớ không phải chùa ! Biết
là chùa nhờ có tấm bảng nằm dưới mái hiên: “Thiền Lâm Tự” ! Bên trong không có
“năm ngăn bảy nắp đầy dẫy tượng Phật, tượng Bồ Tát sơn son thếp vàng” như mấy
chùa nổi tiếng.
Nhưng cũng có đầy đủ ngôi tam bảo với các vật dụng
cần thiết để làm Phật sự. Ở đây, đúng là một cảnh chùa nghèo. Tuy nhiên, theo lời
sư ông, những ngày rằm ngày vía, Phật tử đến cúng bái khá đông. Phần lớn là đồng
bào ở trong vùng và những người không thích “chùa nhà giàu” chính họ nói như vậy.
Về chùa Thiền Lâm, sư ông phân công rõ rệt: sư
ông và người đệ tử lo Phật sự và trông nom trong ngoài, còn cha con ông thầy
thì lo phần chữa bịnh kể cả việc đi bổ thuốc. Cái chái phía bên phải xưa nay vẫn
là phòng mạch, bây giờ giao hẳn cho ông thầy tự do sắp xếp. Cha con ông được
cho một căn buồng ở hậu liêu, có cửa sổ nhìn ra vườn rau cải của chùa. Lâu lâu,
có ai rước sư ông đi làm đám ở đâu thì cha con ông thầy lảnh phần đèn nhang
cúng bái thường nhựt.
Ông thầy chữa bịnh mát tay nên bịnh nhân càng
ngày càng đông. Thầy bắt mạch, rờ trán, xem lưỡi… rồi bốc thuốc gói từng thang
bằng giấy báo. Khi trao thuốc lúc nào thầy cũng dặn: “Đổ vô năm chén nước, sắc
còn một chén uống”. Thang nào của thầy cũng là năm chén nước và không thang nào
là không đi kèm với câu dặn dò trên. Vì vậy, bịnh nhân và người trong vùng gọi ổng
là”thầy năm chén”.
Lâu ngày thành tên luôn, làm như thầy thứ Năm và
tên Chén vậy ! Cho nên, về sau, khi nói chuyện với thầy, bịnh nhân gọi thầy bằng
“thầy Năm” rất tự nhiên. Không thấy thầy ngạc nhiên hay cải chánh gì hết !
Thằng con thầy Năm Chén, tên Kiệt, thông minh học
giỏi cần cù. Kiệt thi đậu vào trường kỹ thuật Cao Thắng. Mấy năm sau, chưa ra
trường đã phải nhập ngũ, đi công binh. Lâu lâu được kỳ phép, về chùa giúp cha bổ
thuốc bốc thuốc, giống như thời mới vào Nam với hy vọng “nơi ni mình sẽ được
yên ổn lâu dài”… Vậy rồi có ngày 30 tháng tư 1975…
Hồi thời Tết Mậu Thân, thầy còn chạy vô Nam. Bây
giờ, thầy không biết chạy đi đâu nữa. Thầy thở dài: “Đúng là cái số !”. Bản chất
thầy hiền hòa mộc mạc như các vị thuốc Nam của thầy, cho nên sự miền Nam mất
vào tay Cộng Sản, thầy nghĩ rất đơn giản: “Tại ông Trời ! Nhơn bất thắng Thiên,
ông bà mình dạy như rứa. Khi ổng đã định, mần răng mà cãi được !”.
Hồi xưa, thầy học “chữ thánh hiền” trước khi thầy
học thuốc. Chữ thánh hiền đã cho thầy có cái nhìn rất khiêm tốn khi thầy chữa bịnh:
“Chẳng qua là phước chủ may thầy…”. Bây giờ, sống trong nghĩa trang, ngày ngày
nhìn mấy lô mả to mả nhỏ nằm im hàng hàng, thầy càng tin ở số mạng. Cái
số thầy phải bỏ xứ để vô Nam, cái số thầy phải ở chùa bốc thuốc, rồi bây giờ
cái số thầy “bị mất nước; sống mần răng với bọn Cộng Sản đây ? “. Nghĩ đến đó,
thầy tự an ủi: “Chừ, mình sống giữa những người chết, chắc bọn nó để cho yên”.
Kiệt đi học tập mấy hôm rồi về chùa phụ sư ông
quét dọn trong ngoài, bởi vì bên phòng mạch bịnh nhân cũng vắng. Làm như người
ta lo sợ quá rồi…quên bịnh! Trái lại bên phía chùa thì lại đông người lui tới
và ngày nào cũng có người. Làm như bây giờ người ta chỉ còn biết… dựa vào Phật
!
Thời gian sau, Kiệt tìm được việc làm ở Khánh Hội,
trong một ga-ra nằm cạnh bờ sông, chuyên sửa máy xe hơi máy tàu. Thầy Năm Chén
và sư ông lâu lâu đóng cửa phòng mạch, đóng cửa chùa để đi học tập chánh trị. Bởi
vì “tư tưởng Mác Lê là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại”, phải thông suốt để về
chùa làm Phật sự cho đúng… “tác phong cách mạng” và về phòng mạch kê toa bốc
thuốc cho hợp với… “yêu cầu đấu tranh giai cấp” !
Một hôm, mấy cán bộ thành vào viếng nghĩa trang.
Sau khi đi một vòng, họ khen… hai hàng phượng đẹp ! Cuối cùng, họ nói:
– Theo quy hoạch của thành phố, nơi này sẽ là
công viên cây xanh, để đồng bào quanh vùng có nơi thư giãn. Việc bốc mộ sẽ có
thông cáo. Mấy người được ở lại đây để trông chừng việc bốc mộ cho đến thời hạn
ấn định trong thông cáo là phải dọn đi ngay. Rõ chứ ?
Sư ông làm thinh. Thầy Năm Chén cũng làm thinh.
Nói cái gì bây giờ ? Đối với những người không biết luật pháp, đối với chế độ
không có luật pháp, thì nói “ừ” hay nói “không” cũng đều là vô nghĩa ! Bởi vì họ
không chấp nhận sự đối thoại. Ngoài ra, họ kiêu căng đến mức độ có thể viết một
câu tổ bố và lố lăng quá mức mà ai cũng thấy trên đường đi Bến Lức
– câu này dân chúng chuyền miệng cho nhau nghe từ
mấy tháng nay vàchính mắt thầy Năm Chén đã đọc khi đi bổ thuốc ở vùng đó – “Thằng
trời đi chỗ khác chơi; Để cho Nông Hội tiến lên làm mùa”. Thì… còn lời gì để
nói ?
Nhưng sự “làm thinh” của sư ông và thầy Năm Chén
không phải chỉ đơn thuần ở chỗ “hết nước nói”, mà còn là cách để tỏ thái độ của
hai ông: làm thinh là khinh miệt bọn chúng, những thằng không đáng để nói chuyện,
những thằng mất gốc, tổ tiên không thờ đi thờ hai thằng tây mũi lõ Mác gì gì Lê
gì gì đó không biết nữa. Sự làm thinh của hai ông – sự làm thinh của kẻ sĩ – có
giá trị gấp mấy lần những lời thóa mạ chửi bới, vậy mà mấy cán bộ lại cho
là”thành quả của giác ngộ cách mạng” !
Mấy hôm sau, thầy Năm Chén kéo thằng con ra góc
nghĩa trang, thấp giọng nói:
– Cha có chuyện ni muốn nói với con. Nhưng con
phải giữ kín.
– Dạ.
– Con nên tìm đường đi chui đi.
– Cha nói chi lạ rứa ?
– Không có chi lạ hết. Cha không muốn con ở lại
xứ ni. Mình không còn đất đứng nữa, con à.
Nói đến đây, giọng thầy nghẹn lại. Thầy không
nhìn con. Thầy nhìn ra mấy lô mả. Thầy chớp mắt thật nhanh để nước mắt đừng đọng
thành giọt. Rồi thầy thở dài…
Mồ mả sao mà an bình chi lạ. Rồi sẽ không còn
được như vầy nữa, nay mai… Chế độ không để cho ai được yên, kể cả người chết !
Kiệt nhìn cha, bồi hồi. Con người đó xưa nay hiền
hòa, an phận. Vậy mà bây giờ lấy một quyết định có tánh cách chống đối dầu là
tiêu cực, chứng tỏ ông “chịu đựng hết nổi”.
– Nghèo như mình thì lấy vàng mô mà đi chui, cha
?
– Cha nghe nói có nhiều người làm việc trên tàu.
Họ đi được.
– Nhưng đó là họ đi một mình. Đi đánh cá, gặp dịp
là đi luôn.
– Thì cha cũng muốn con tìm cách làm như rứa.
Con cũng một mình chớ mấy mình.
– Không ! Con còn có cha nữa.
– Đừng lo cho cha. Cha già rồi. Tương lai là
con, mô phải là cha.
– Gia đình mình chết hết, còn lại có hai cha
con. Con đâu thể nào bỏ cha được, cha.
– Chính bởi vì cha chỉ còn lại có mình con mà
cha muốn con phải đi khỏi xứ ni. Cha không muốn thấy con làm tôi mọi cho một lũ
ngu dốt. Cha muốn thấy con được sống trong một xứ tự do. Có nghèo cũng nghèo
trong tự do. Mà rủi có… rủi có chết cũng chết trong tự do,con à.
Đến đây thì Kiệt không dám nhìn cha, bởi vì
gương mặt héo hon đó vừa nhăn nhúm lại như một miếng cau khô. Lòng quặn thắt,
Kiệt nhìn đi nơi khác.
Mồ mả sao mà an bình chi lạ. Đằng kia, hai hàng
phượng trổ bông đỏ ối. Màu đỏ trong nghĩa trang, xem vừa lạc lõng vừa vô duyên,
không hợp tình hợp cảnh chút nào. Vậy mà bao lâu nay Kiệt không hề để ý. Làm
như phải lâm vào một nghịch cảnh, người ta mới nhìn thấy rõ những nghịch cảnh
chung quanh ! Bây giờ thì đến phiên Kiệt thở dài…
Từ ngày có thông cáo dán trên cổng nghĩa trang,
đồng bào tới lui chùa nườm nượp. Làm như thiên hạ muốn gần Phật thường hơn, đều
đặn hơn, lâu hơn… trong những ngày những tháng còn lại này. Bởi vì Phật
sẽ không còn được ở đây nữa, mặc dầu – theo lời ông già bà cả trong xóm – Phật
đã được an vị ở chùa này gần ba mươi năm, hồi thời chưa có nghĩa trang, hồi thời
bà phủ S. chưa bán đất cho Hội Tương tế X. Họ nói với nhau: “Nhà Nước này ngang
ngược không nể nang ai hết. Có ngày sẽ bị Trời Phật trừng phạt cho coi !”.
Bên phòng mạch, bây giờ, lúc nào cũng đông người.
Có bịnh nhân đến xem mạch và có những người không phải đến xem mạch nhưng đã từng
uống thuốc của thầy Năm Chén. Những người này, sau khi cúng bái bên chùa, bước
qua đây ngồi nói chuyện cà kê. Làm như để hổ trợ tinh thần thầy vậy. Có người hỏi:
– Rồi thầy dọn đi đâu ?
– Biết đi mô chừ !
– Quân gì mà vô nhân đạo. Muốn đuổi ai thì đuổi.
Muốn lấy của ai thì lấy. Mà mở miệng ra là”cho nhân dân, vì nhân dân”.
– Tại cái số của tôi như rứa, mấy ông à. Nói mần
chi ?
Bây giờ, thầy Năm Chén, sau khi trao mấy thang
thuốc cho bịnh nhân, không phải chỉ nói vỏn vẹn câu quen thuộc “đổ năm
chén nước, sắc còn một chén uống”, mà còn dặn dò thêm phải ăn uống như thế nào,
phải kiêng cữ những gì bởi vì “cái tạng ni dễ bị bịnh khi trái gió trở trời”…
Thầy còn nói: “Khi mô thấy bắt đầu khó chịu thì
lấy bao nhiêu lá gì với lá gì kèm theo bao nhiêu bông gì với bông gì… sắc uống
cho nó chận”. Thầy làm như ngày mai thầy sắp đi xa. Và chắc đi lâu lắm, bịnh
nhân cần bảo trọng lấy thân.
Người nào cũng cảm động khi nhận mấy thang
thuốc của thầy, mấy thang thuốc không phải chỉ có những vị này vị nọ, mà có cả
tình người nằm trong đó. Chất liệu trân quí này, trong thời buổi này, thật hiếm
hoi. Cho nên, khi cầm trên tay mấy thang thuốc, cử chỉ của họ bỗng trở nên
trang trọng. Và người nào cũng nghĩ: “Tội nghiệp ! Người hiền hậu như vậy, bảy
tám năm nay giúp đỡ đồng bào bịnh nhân ai cũng mang ơn… Vậy mà chánh quyền cũng
không để cho yên !”.
Ít lâu sau, Kiệt được một người bạn có tàu đánh
cá rủ đi chui bởi hắn đang cần người xếp máy. Kiệt về chùa cho cha hay. Thầy
Năm Chén mừng rớt nước mắt:
– Rứa là lời cầu nguyện của cha đã được Ơn Trên
chứng giám. Khi mô đi ?
– Mười hôm nữa.
– Ờ… Chừ thì mình vô thắp nhang lạy tạ Trời Phật,
đi con.
Năm hôm sau, bỗng thầy Năm Chén than “khó ở”, “tỳ
vị bất thông”. Thầy không ăn được cơm, thầy ăn cháo. Cháo với chao, tương, rau
luộc. Không ăn được những món cứng như dưa leo, dưa cải, củ cải muối… những món
thường dùng trong bữa cơm chay lạt ở chùa. Không thấy thầy uống thuốc.
Thầy nói: “Cứ ăn cháo vài hôm là khỏi”. Sư ông
thương hại, an ủi: “Họ đuổi thì mình đi. Thầy lo làm chi cho sanh bịnh. Chừng hết
hạn bốc mộ, tôi sẽ đưa thầy về quê tôi ở Nha Trang. Ở đó, cũng có một ngôi chùa
nhỏ như vầy. Mình sẽ tiếp tục giúp đồng bào như đã làm lâu nay. Thầy yên tâm
đi. A di đà Phật…”.
Ngày thứ mười, cha con thầy Năm Chén qua chùa lạy
Phật. Xong, thầy đưa cho Kiệt một gói bằng vải đỏ đã phai màu nhỏ bằng đầu ngón
tay cái, cột làm nhiều gút, nói:
– Cha cho con cái ni. Con giữ kỹ trong người để
hộ thân.
Kiệt cho vào túi áo trên ngực, cẩn thận gài miệng
túi bằng cây kim tây, nhìn cha cảm động, nghĩ: “Cha thật chu đáo. Còn nhớ cho
mình bùa ngải để hộ thân nữa”.
Chia tay mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ
người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghĩa trang. Sợ người ta để ý. Thầy
không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý ! Thầy chỉ thở dài. Thời
buổi bây giờ, chỉ có thở dài là không thấy ai để ý. Bởi vì, ai cũng thở dài hết
!
Thời gian sau, thầy Năm Chén theo sư ông về chùa
ở ngoại ô Nha Trang. Thầy lại bốc thuốc giúp đồng bào nghèo. Kiệt đi chui, lọt.
Rồi định cư ở Canada…
Một hôm, sực nhớ gói bùa ngải của cha, Kiệt
tò mò mở ra xem: đó làba cái răng vàng, loại răng cấm. Thì ra thầy Năm Chén đã
cạy ba cái răng vàng của mình để cho con làm của hộ thân ! Không còn răng để
nhai cơm, thầy chịu ăn cháo suốt phần đời còn lại. Nhớ cha, thương cha, Kiệt cầm
ba cái răng vàng trong tay mà khóc hết nước mắt…
Không đề tên tác giả
304Đen
– llttm - YD
1 comment:
Bài văn này của nhà văn Tiểu Tử, người quê ở Gò Dầu, Tây Ninh, sao lại ghi không đề tên Tác Giả.
Post a Comment