Sương Chiều Xóm Bên Sông
Thursday, June 26, 2025
Quê Tôi - Nhóm Vườn Thơ Mới Xướng Họa
THƠ XƯỚNG HỌA KỲ 173_VƯỜN THƠ MỚI
Xướng:
Quê
tôi
Quê
tôi xứ Bưởi buổi chiều tà
Mặt nước Sông Đồng chẳng gợn ba
Châu Thới hoa rừng khoe sắc thắm
Bửu Long chim chóc lượn tầm xa
Nhìn người lưu lạc nơi xa xứ
Thấu hiểu cho ai nỗi nhớ nhà
Ao ước một ngày hồi cố quốc
Dạo quanh mái ấm tỉnh Biên Hoà
THT
ba 波: sóng nước
Họa 1:
Linh Sơn Tiên
Thạch Tự
靈山 先 石 寺
Cao vút núi
xanh dưới nắng tà
Êm đềm ngoạn mục bất phong ba
Trang nghiêm Thạch Tự cao vời vợi
Hoan hỉ sân chùa đón khách xa
Rộn rịp viếng
thăm nơi cổ tự
Thảnh
thơi thư giãn dưới hiên nhà
Thập phương bá tánh đều cung kính
Thí chủ vãng lai chốn dĩ hòa
PTL
Thạch tự: Linh Sơn Tiên Thạch Tự 靈山 先 石 寺 còn
được gọi với nhiều cái tên khác nhau như chùa Bà, chùa Phật hoặc chùa Thượng.
Chùa Bà là ngôi chùa cổ nhất trong số các chùa
núi Bà Đen ở Tây Ninh, có tuổi đời lên đến 300 năm.
Hai vị thiền sư đầu tiên khởi công xây dựng
ngôi chùa này là Thiền sư Đạo Trung và Thiền sư Thiện Hiếu.
Dĩ
hòa: dĩ hòa vi tiên 以和為先
Dĩ: Lấy, dùng
Hòa:
êm thuận với nhau.
Vi:
làm.
Tiên:
trước.
Dĩ hòa vi tiên là lấy sự hòa thuận làm trước hết.
cổ tự 古寺:
chùa lâu đời
Họa 2:
Quê
Tôi
Chiều
xuống quê tôi dưới nắng tà
Dòng sông êm ả nét thu ba
Núi Bà sừng sửng mây che phủ
Róc rách suối vàng tận đỉnh xa
Mái ngói chùa trung Tiên Thạch Tự
Tăng ni tự viện một ngôi nhà
Thập phương bá tánh thường chiêm ngưỡng
Giới luật đồng tu giữ lục hòa
Hương
Lệ Oanh VA
Lục hòa là 6 giới cấm của người tu sĩ phải giữ. Sau nầy phật tử tại gia cũng tự
giữ cho mình như vị tu sĩ tùy theo người có thiện tâm.
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật
chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm.
Thân
hòa cộng trụ: sống chung trong một tập thể, thường nên chiếu
cố giúp đỡ lẫn nhau.
Khẩu
hòa vô tranh: khuyến khích khuyên bảo cùng nhau làm thiện,
dứt trừ làm ác.
Ý
hòa đồng sự: cùng nhau bàn bạc cho ra lẽ và vui
vẻ chấp nhận.
Giới
hòa đồng tu: cùng nhau tu tập theo giới
luật chung đã được đặt ra
Kiến
hòa đồng giải: lý đạo đã thông xin chia sẻ cùng mọi
người, cùng nhau tu tập.
Lợi
hòa đồng quân: bình đẳng trong đồng đẳng.
Họa
3:
Hoài
cảm
Mỗi
lúc chiều sang ngắm nắng tà
Thương
đời gian khổ lắm bôn ba.
Chạnh
buồn đất khách thân già lão,
Vọng
tưởng hồn quê núi khuất xa.
Tím
ngắt lục bình loang loáng sóng,
Thiết
tha chim quốc nhớ nhung nhà.
Năm
dài tháng rộng tình vương vấn,
Ai
đó tri âm mấy vận hoà...
Minh
Tâm
Họa
4:
Quê
tôi
Quãng
Trị quê nghèo đượm nắng tà
Mươi
phần sỏi đá, ruộng gần ba
Người
dân bản xứ cam đành với
Ngọn
Gió Lào khô nỗi xót xa
Thạch
Hãn chia dòng xuôi Cửa Việt
Hiền
Lương cản lối cách quê nhà
Muôn
đời Ái Tử hằng vun đắp
Vượt
khó cùng xây mộng thái hòa.
TQ
June
14, 2025
Họa
5:
Nhớ nhà
Lặng
ngắm chiều rơi dưới nắng tà
Chim
trời vỗ cánh vọng âm ba
Mấy
năm viễn xứ hồn hoang lạnh
Một
phút suy tư cảnh xót xa
Nhớ
mái tranh nghèo un khói bếp
Thương
tà áo trắng sống quê nhà
Mơ
ngày đất nước thanh bình cũ
Ta
sẽ về thăm hưởng thái hòa
Nguyễn Cang
Jun.
14, 2025
Xin Cho Được Một Lần - Nguyễn Cang
XIN CHO ĐƯỢC MỘT LẦN
Xanh
xao vạt nắng bên thềm
Mùa
Thu thay áo cho tim héo sầu
Lặng
nghe tiếng vạc kêu mau
Tâm
tư nặng trĩu một màu trái ngang
Trần
gian cõi tạm bàng hoàng
Giật
mình tuổi hạc ngỡ ngàng hư vô
Nhiều
đêm thắp ngọn đèn mờ
Để
khơi niềm nhớ ngẩn ngơ đợi chờ
Cuối
đời còn một ước mơ
Gởi
người năm cũ bài thơ tạ từ
Còn
chăng nước mắt tràn dư
Ly
Tao mộ khúc chân như cuối đường!
Nguyễn
Cang ( Jun. 21, 2025)
Hương Muộn - Thuyên Huy
HƯƠNG MUỘN
Chuyện của những người có người thật
nhưng tình tiết, nhân vật và bối cảnh không thật
1.
Chiều thứ bảy, Sài gòn nắng, cái nắng của những ngày cuối hạ đầu thu,
cái nắng bâng khuâng, lơ đảng của trời ngấp nghé giao mùa, đường phố vẫn là đường
phố ngựa xe xiêm áo, quần là áo lụa.
Định vào thư viện nhưng thôi, Đăng tẻ ngang qua đường Lê Lợi, thả bộ lên
hướng quốc hội, tới góc đường ngã tư không biết chiếu phim gì mà người ta đứng
đông nghẹt trước rạp Casino, nhìn tới nhìn lui, chờ đèn băng qua bên kia tiệm
kem Mai Hương, nhưng bất chợt đứng khựng lại, cô gái áo dài tím nhạt, khăn thu màu
lam nhạt quàng cổ từ bên kia đường vừa tới, cũng khựng lại, hai người nhìn nhau
ngờ ngợ, anh buột miệng “phải chị Khánh Vy, hông?”, cô nàng đầu gật đầu
“Đăng hả?”.
2.
Nhà nghèo, ở cuối ấp chợ xã, ba Đăng mất sớm, má tần tảo, lam lũ trồng
chừng ba bốn chục luống khoai lang Như Ý trên miếng đất xéo cuối ấp chợ xã, bán
cho bà con trên chợ, cũng may nữa là có bạn hàng từ dưới quận lên mua mảo khi
có nên hai má con tạm có đủ ăn đủ mặc, ít khi bị thiếu trước hụt sau.
Trường tiểu học xã gần nhà, Đăng học giỏi, lễ phép dạ thưa, thầy cô ai
cũng thương, đám nhỏ bạn quê, bạn chợ đều mến. Cuối năm lớp Nhất, cả chợ chỉ có
một mình Đăng thi đậu vào trường trung học tỉnh, má Đăng mừng quá đổi nhưng lại
lo cũng không thua gì, có chút xíu rồi lên tỉnh, xa nhà, đất lạ, một thân một
mình làm sao bà an tâm, lẩm nhẩm suy tới nghĩ lui, bao nhiêu ngày rồi mà cũng
chưa biết tính sao đây, nhìn con vui chơi, hỏi này hỏi kia mà rầu thúi ruột.
Một hôm cô Sen, cô giáo lớp Nhất
của Đăng tới nhà thăm, chung vui trước khi về dưới An Tịnh nghỉ hè, mang theo
gói quà to tướng mà cô thầy cả trường chung lo, như món quà thưởng Đăng thi đậu,
má Đăng bùi ngùi, xúc động, cám ơn mà rưng rưng nước mắt, cô Sen thấy bà xem ra
không được mừng trọn vẹn, có cái gì đó lấn cấn, cô hỏi ngay, bất ngờ quá, bà
thú thiệt chuyện không biết kiếm cho Đăng chỗ ở trên tình, lạ ngắt lạ ngơ, bà
có quen biết ai đâu, túng quá chắc phải nhớ tới bác từ dưới chùa, vì bác thường
lên xuống trên đó.
Cô Sen, thở phào, nắm tay má Đăng, tưởng chuyện gì, bà đừng lo, mọi thứ
để cô sắp xếp cho, cô có người dì bà con có chồng làm việc trên tỉnh, hai vợ chồng
hiền hậu tử tế lắm, thuần đạo Phật nữa, rất thương người. Quà thầy cô cho nhiều
lắm, nhất là mấy sấp vải trắng, xanh dương để may đồng phục và chồng vở, viết
chì viết mực, cô Sen về rồi, nhắc là cô sẽ lo đúng ngày nhập học, an tâm, hai
má con mở quà rồi bà khóc, Đăng không biết gì cũng thút thít khóc theo, rồi từ
hôm đó trở đi, bà dặn dò anh ta mọi thứ, từ phép tắc chào hỏi, đi thưa về trình
như ở nhà, ăn uống nhỏ nhẹ, không chơi đùa phá phách, phụ giúp việc nhà với người
ta, nhắc đi nhắc lại bảo Đăng phải nhớ, làm sao mà anh nhớ nổi nhưng thói quen
từ ngày lớn khôn được má dạy, làm quen rồi cho nên khỏi cần nhớ nhiều. Trước
ngày tựu trường chừng hai ba ngày, cô Sen trở lên thật sớm, rồi cô trò đón xe
đò lỡ dưới quận, lên tỉnh.
*
Trước ngày vào học một hôm, hai má con theo cô Sen lên tỉnh, mang theo
cái rương thiếc nhỏ, đựng áo quần, tập viết và mấy thứ lặt vặt, thêm một chút
tiền mặt mà cô Sen và má Đăng cho. Vợ chồng bà dì, dì Trâm ân cần, thăm hỏi má
đủ thứ từ món ăn tới giấc ngủ, bảo má đừng lo gì hết, cứ yên lòng, để đó gia
đình bà lo cho.
Nhà còn có hai chị em, chị Khánh Vy, năm này học lớp đệ Tứ, em Khánh
Vân, cũng vừa đậu đệ Thất như Đăng năm nay. Má, cô Sen và Đăng vừa vào tới cổng
rào thì hai chị em đã chạy úa ra, cúi đầu dạ chào, nắm tay cô Sen mừng reo tở mở,
bà dì ra tới, hai chị em đứng lùi lại sau, nhìn Đăng cười cười, khi thấy anh
khoanh tay cúi đầu chào, má Đăng ngại ngùng, không biết nói gì, bà dì nắm tay
bà mời đi vào, má Đăng luýnh quýnh rối chân, cô chị Kháng Vy, chạy tới phụ bưng
cái rương thiếc một tay với cô Sen, ba cô cháu nhìn Đăng nói gì đó, Đăng bẻn lẻn
theo sau chân má vào nhà.
Cả nhà theo ra đưa cô Sen và má
Đăng ra về, bà đỏ cay mắt rấm rứt hai tiếng cám ơn bà dì Trâm không biết bao
nhiêu lần, làm cô Sen cũng rưng rưng, Đăng đứng nhìn, bà ôm con, rờ đầu rờ tay,
bùi ngùi dặn Đăng nhớ lời má dặn, cô Sen ra đường đón xe lôi máy, rồi cũng phải
về, xe lôi máy chạy đi, bà bật khóc, Đăng đứng chết trân ngay cổng rào, kêu lớn
theo “má ơi, má ơi”, bật khóc ngon lành, Khánh Vân nhìn anh ta muốn khóc
theo, chị Khánh Vy nắm tay Đăng vổ về an ủi, trời phố tỉnh chập chững chiều
lên. Nhà ở quê đêm nay và cũng từ đêm nay má Đăng chỉ có một mình, thui thủi, ở
đây xứ người Đăng cũng thui thủi một mình.
*
Nhà bà dì, căn biệt thư kiểu Tây, nằm gọn sau cái sân trước đầy hoa Sứ
trắng, hàng rào gạch cao tới chừng nữa người, với cái cổng sắt sơn trắng, ở bên
bờ nhánh sông chảy chia đôi phố tỉnh, trên đường tới trường không mấy xa, và
con đường này cũng là đường xe đò lớn đi về.
Ông dượng, dượng Tín, làm chủ sự phòng tài chánh của ty Xã Hội tỉnh. Dượng
Tín hiền lắm, cười nhiều ít nói, bà dì Trâm thì nhanh nhẹn, quán xuyến mọi thứ
trong nhà, nói năng chưa hề lớn tiếng. Ông dượng đi làm bằng xe Vét – pa, còn
có cái xe Citroen “con cóc” màu xám trong nhà xe. Cái phòng nhỏ nhắn, nằm
sát bên cạnh phòng của chị Khánh Vy, cả hai đều có cửa sổ ngó ra vườn sau, con
đường nhỏ lát gạch nâu giữa sân, đầy hoa Mười Giờ bao quanh hai ba gốc cây Dạ
Lý, chờ tỏa hương đêm.
Đăng thừ người, rụt rè nhìn, ở một góc phòng, cái giường ngủ gỗ nâu trải
nệm mỏng, cái bàn học có kệ để tập sách kề bên, cái tủ thấp nhiều hộc để quần
áo, cái nào cũng mới, cứ nhìn mà chưa biết phải bắt đầu làm gì, thì bà dì Trâm
tới, hai chị em theo sau lưng, bà từ tốn chỉ quanh “mấy cái này để cho con
đó, con muốn sắp xếp như thế nào thì con làm nghe”, chị Khánh Vy bước vào “để
chị chỉ cho”, Khánh Vân cũng ùa vào “em phụ nữa nghe”, bà dì cười gật
đầu bỏ đi ra, mới đầu còn lo nhưng Khánh Vân, vừa làm vừa luôn miệng, líu lo chỉ
hết cái này tới cái kia, dặn Đăng điều này điều nọ, phút giây bỡ ngỡ vụt qua,
Khánh Vân lăng xăng nói cười, chuyện đi học chuyện đi chơi, chị Khánh Vy bổng dưng
bật cười thành tiếng “con nhỏ này lộn xộn quá”.
Bữa cơm chiều, ngồi kế bên Khánh
Vân, Đăng ngượng ngập, ăn không dám ăn, ông bà dì dượng thúc ăn tiếng một tiếng
hai, hai chị em cũng vậy, cũng gấp cái này cái kia cho, ông bà dì dượng nhìn thằng
nhỏ, nhìn hai chị em, buột miệng “tôi nghiệp”. Đêm đó, đêm đầu tiên xa
nhà, xa má, Đăng cứ khóc, trằn trọc nhớ, nhớ mấy củ khoai lang nướng buổi sáng,
nhớ đám gà con vàng óng, tíu tít theo chân con gà mẹ tìm mồi trên sân sau, nhớ
ngọn đèn dầu má ngồi tập cho Đăng nhưng chữ viết đầu tay, nhớ cái áo màu đen bạc
màu, cái nón lá rách cũ mèm của má đi tưới những luống khoai một sương hai nắng,
nhớ tiếng trống tan trường, nhớ đủ thứ, nhớ tới mức ngủ thiếp đi.
Nhập
học, quen dần với đám bạn cùng lớp, có đứa cũng từ làng xã xa lên, mầy mầy tao
tao làm Đăng cũng nguôi ngoai, quen dần với phố xá. Buổi sáng đi học, trên đường
tới trường, chị Khánh Vy đi với mấy chị bạn trước, Đăng và Khánh Vân nói cười
theo sau, ngày này qua ngày nọ, giờ ra chơi, bên lớp con gái Khánh Vân chạy qua
sân trường kiếm Đăng trước, rồi mới trở lại chơi với đám bạn gái đứng chờ xa
xa.
Mấy tuần đầu, sáng thứ bảy nào cũng vậy, chị Khánh Vy chở Đăng bằng
Honda ra bến xe ngoài chợ, trả tiền xe, sắp ngồi ghế ngay sau lưng bác tài xế
nhắc anh lơ, nhớ ngừng cho Đăng xuống chợ xã, chị cũng không quên dặn, nhắc tới
nhắc lui bảo Đăng nhớ kêu xe ngừng, chị đứng chờ cho đến khi xe chạy. Ở nhà
quanh quẩn bên má, kể chuyện học chuyện ăn chuyện phố phường, má vui mừng khôn
xiết khi nghe Đăng nói ông bà dì dượng thương nó nhiều lắm, chiều chủ nhật má
Đăng đưa ra đường lộ, đón xe đò gởi theo trở lên tỉnh lại, nghe con nói mà bà mừng
không biết bao nhiêu, cám ơn ông bà trời Phật nhưng cũng lo không biết bao
nhiêu, món nợ ân tình sâu nặng này biết chừng nào mới trả được. Đăng cũng khá
thông minh nên quen đường, cứ thả bộ bên lề bờ sông về nhà ông bà dì dượng
không có gì khó.
Quen dần với lớp học với bạn bè, chừng đâu hơn hai tháng sau đó, sáng thứ
bảy với ba bốn đứa bạn cùng lớp, cũng dân quê miệt dưới nhà Đăng, cùng đứng bên
này cổng trường, chỗ xe đò lỡ dưới quận thường ngừng, đón xe, tới chỗ đứa xuống
trước, đứa xuống sau, vậy thôi, riết rồi quen nước quen
cái, không còn sợ sệt nữa, chị Khánh Vy cũng
không cần chở tới chở lui.
*
Cuối hè năm đệ Tứ, Đăng chuyển về trường trung học dưới quận, năm nay vừa
có thêm lớp đệ Tam, bốn năm nay bà thui thủi sớm hôm một mình, Đăng ở trên tỉnh
buồn lắm, thương má nhiều lắm nhưng hai má con đành phải ráng mà chịu, nay có lẽ
về dưới này thì tiện biết mấy, sáng đi chiều về má con sẽ hủ hỉ bên nhau trong
những ngày tuổi đời còn lại của bà. Cô Sen đã lập gia đình và đổi về dạy dưới
quê chồng đâu đó ở Trà Vinh, cô có đến từ giã má Đăng, gởi lại chút quà, nhắc
Đăng ráng học.
Trước này nhập học chừng hơn mười ngày, Đăng trở lên tỉnh, cây phượng
già gốc sân trường còn đôi chút hoa nở muộn, mùa hạ buồn, Đăng báo tin, cám ơn
bà dì ông dượng chuyện chuyển về trường quận, hai chị em ngồi nghe, Đăng đứng
khoanh tay báo tin mà nước mắt ràng rụa, Khánh Vân quay mặt không nhìn, cũng
khóc. Chị Khánh Vy gượng cười, nụ cười buồn , ông bà dì không nói gì hơn, chỉ dặn
là về dưới nếu cần gì, gặp khó khăn gì thì lên cho ông bà dì biết, vậy thôi.
Đăng thu xếp, sách vở, áo quần, những thứ lặt vặt của mình, vào cái
rương thiếc và hai ba túi xách vải, Khánh Vân không còn lăng xăng “Đăng hởi
Đăng ơi” nữa, đứng ở bên cửa phòng mình, nhìn qua buồn rười rượi. Chị Khánh
Vy phụ tay, mang đồ ra cổng đón xe lôi máy. Nhìn lại căn phòng, một lần nữa
Đăng bật khóc dù đã cố ngăn, ông bà dì dượng theo ra, Đăng cúi đầu xá ông bà ba
xá thay ba lạy, mắt bà dì ngấn lệ, Khánh Vân và Đăng đứng bên nhau, nói với
nhau gì đó, nhiều và nhiều lắm, xe lối máy chờ ngoài đường, xe chạy đi, Đăng
không dám nhìn lại, sợ phải khóc nữa.
Bữa cơm chiều buồn, dường như không ai muốn ăn, ai cũng ngồi riêng một
mình, lặng thinh, Khánh Vân thở dài, cái thở dài khó tả của cái tuổi vừa mới biết
thương, thương gì đó, ai biết, căn nhà buồn theo.
Trước ngày tựu trường một hôm, hai má con đón xe lên tỉnh thật sớm, đến
nhà một lần nữa nói lời từ biệt. Ông dượng đi làm không có nhà, trong phòng
khách, má Đăng vẫn khúm núm nhà quê như lần trước lên có cô Sen, má sụt sùi cám
ơn công ơn của ông bà dì dượng, bà cũng xá ba xá thay ba lạy, nói tiếng mất tiếng
còn, nước mắt tuôn dài, bà dì ôm chầm lấy bà rồi cũng rưng ngấn lệ, chị Khánh
Vy ngồi ở góc phòng khách cũng không kềm được xúc động, vut bỏ chạy ra ngoài mà
nước mắt lưng tròng. Bên ngoài, Khánh Vân ngồi bên Đăng thật lâu mà không ai biết
nói gì bây giờ, dù có biết bao nhiêu cái tuyệt vời của bốn năm muốn nói, nhìn
nhau rồi nhìn ra sân, trời sáng một màu vàng hực nhưng hình như với họ chỉ là
xám đen ảm đạm.
Rồi cũng phài chia tay, họ đi rồi, một lần nữa người buồn, căn nhà cũng
buồn theo.
*
Trường mới, năm học mới, bạn bè mới, thầy cô mới, mọi thứ bề bộn, xe cộ
sáng đi chiều về vài tháng mới tạm ổn, trước ngày đưa ông Táo mấy hôm, Đăng mượn
cái xe Honda của người bạn cùng lớp, ban sơ thân tình, dân chợ quận, sáng chạy
một mạch lên tỉnh, tới khúc quanh đường vào nhà Khánh Vân, lòng vui rộn rã gặp
lại người xưa, nói xưa chứ mới đây mà xưa nổi gì. Dựng xe trước cổng, ngõ trước
ngõ sau vắng tanh, cổng đóng kín không rộng mở như trước đây, ngờ ngợ, Đăng khẻ
đập mạnh gọi vào trong , chờ, không lâu lắm, có chị gái chậm đi ra, Đăng đứng
chết trân, gia đình của Khánh Vân đã dọn về dưới Sài Gòn mấy tháng nay rồi, căn
nhà bán lại cho chủ mới, chị là người làm công, chỉ biết tới chừng đó thôi, chị
nấn ná chờ xem còn hỏi gì thêm, Đăng ngẩn ngơ, cám ơn mà không nói thêm gì được
nữa, chị cũng chào, bỏ đi vào, không ngó lại.
Đăng đứng dựa vào cái xe Honda, tưởng chừng như sắp ngã, thở dài nhìn
con đường quen ngày nào, ngày hai đứa chân trước chân sau, “Đăng ơi Đăng hởi”.
Là vậy rồi, thôi, lần sau cùng, chào không hẹn căn nhà của một trời kỷ niệm nhiều
vui ,chưa thấy buồn. Đăng bỏ phố tỉnh đi, nơi này không còn gì để trở lại nữa, cũng không có lần nào gặp lại ông bà dì dượng
và hai chị em từ ngày đó.
*
Xong mùa thi năm cuối Phú Thọ, chờ tốt nghiệp, thì má Đăng mất vì cơn bệnh
sốt xuất huyết tái phát, không có dấu hiệu gì báo trước. Đành vậy thôi, anh đưa
má về Thạnh Phước chôn bên cạnh mồ ba, bá má giờ sẽ có nhau ở một chốn bình yên
miên viễn, đau đớn, quặn thắt biết chừng nào nhưng không khóc bù lu bù loa như
ngày còn con nít, khóc mà nuốt lệ trong lòng, nổi lòng ôm mang từ đây. May mà
còn đôi ba người bạn cũ của ba của má, Đăng nhờ họ trông coi giùm luôn hai nấm
mồ, căn nhà ở chợ xã thì chú tư Biên, chủ cái xe lam chở người đi chợ quận về
chợ xã mua lại, cái xe mà Đăng đi về suốt mấy năm học trường quận, chú sẽ lo
bán miếng đất trồng khoai lang, chú giữ tiền bán được, sẽ giao lại, Đăng chào từ
biệt, nói với vợ chồng chú, cứ xài đi đừng lo chuyện đó.
3.
Sáng chủ nhật, cũng cái nắng cuối
hạ đầu thu, đường phố thưa người, còn ngày nghỉ làm, xuống xích lô đầu hẻm, con
hẻm cụt khá rộng, gần cuối ngã ba Cao Thắng – Hồng Thập tự, Đăng lửng thửng thả
bộ đi vào tới nhà, chưa tới cổng, cái cổng sắt sơn trắng, cao không hơn đầu gối,
khiêm nhượng làm kiểng, che hờ che hửng cái sân trước nhỏ, đầy hoa Mười Giờ như
những cụm hoa Mười Giờ của căn nhà trên phố tỉnh ngày nào, chị Khánh Vy nhanh
ra, vừa giục anh vừa quay vào trong, cửa chính mở rộng, kêu lớn “má ơi, Đăng
tới đây nè”, chưa dứt tiếng “đây nè” thì bà dì đã ngay trước thềm cổng,
Đăng theo bên chị, cúi đầu, ba người mừng như nhau muốn khóc, bà nắm chặt tay
anh “trời ơi, thằng Đăng đây hả con?”. Vào trong nhà, hai má con lăng
xăng, hỏi hết chuyện này chuyện kia, nhất là chuyện năm sáu năm qua, anh ở đâu,
anh làm gì, chưa hết câu này thì đã tới
câu khác, Đăng nhìn quanh, không còn ai
nữa, biết ý, bà cho biết Khánh Vân chở ông dượng đi mua gì đó ngoài chợ Sài
Gòn, chắc cũng sắp về, bảo Đăng phải ở lại ăn cơm trưa mới được.
*
Có
tiếng xe Honda vào sân, chị Khánh Vy kéo Đăng đi ra nhà sau, bà dì nhanh chân
bước ra cười “cha hai cha con mua cái gì mà tay xách tay mang dữ vậy, tới giờ
này mới về?”, ông dượng khệ nệ xách túi đi vào, Khánh Vân từ từ đẩy xe lên
trên bậc thềm, ngay cửa sổ ngó ra đường, thấy bà dì cứ nhoẻn miệng cười cười
không nói gì hết, ông dường cũng phì cười “cha bà này bữa nay lạ lạ à nghe”,
bà vẫn vậy “vô nhà đi, có gì đâu, cười mà ông cũng không cho hả?”, Khánh
Vân nhìn má mình lầm thầm “má bữa nay thấy lạ thiệt”.
Không
đợi hai cha con dẹp đồ xong, bà bỏ ra
nhà sau, cha con vẫn còn loay hoay cái này cái nọ, bà dì, chị Khánh Vy và Đăng
đi lên, bà lên tiếng “cha con ông dòm đi, nhà có khách, ai đây nè”, hai
người buông tay, quay lại, Khánh Vân chết trân, buột miệng “anh Đăng”,
ông dượng mắt già đỏ hoe “thằng Đăng hả con?”, chỉ ngần đó, năm người
không nói được tiếng nào, cứ nhìn nhau mà rưng rưng nước mắt.
Bữa
cơm trưa nói nhiều hơn ăn, mặc tình cơm canh nguội lạnh, nói mà tiếc nuối, nói
mà mừng vui, tên ai không nghe mà cứ “Đăng ơi Đăng ơi” như những ngày
cũ, rộn rã tiếng cười, chuyện hôm qua còn dài, cả nhà hỏi, giữa năm đệ Tam trường
quận năm đó, Đăng có trở lên tỉnh, lại nhà nhưng gia đình bà dì, ông dượng đi rồi,
chủ mới không biết hiện ở đâu, buồn quá tưởng chừng như mất mát cái gì đó,
không diển tả được, và cái buồn đó cứ theo mình suốt những năm sau, và cuối
cùng, anh cho biết má đã mất. Nghe tin này cả nhà lặng thinh, bùi ngùi cố nén
xúc động, chỉ có Đăng, lần này lại bật khóc.
Khánh
Vân ra trường, đang dạy ở trường trung học Sương Nguyệt Ánh, chị Khánh Vy làm
cho ngân hàng Pháp Á trên đường Nguyễn Huệ, ông dượng vừa nghỉ hưu trí năm nay.
Tốt nghiệp Hóa học Phú Thọ, làm việc cho trung tâm Nguyên tử năng Đà Lạt chừng
hơn một năm, giờ về lại Sài Gòn, vừa nhận việc ở công ty SAKYBOMI, bên bến Bình
Đông, phường Rạch Cát vơi chức vụ trưởng phòng kiểm ngh iệm hai tuần nay, đang ở
tại căn nhà mướn nhỏ gọn, ở trong cư xá hỏa xa Petrus - Ký, đi làm thì có xe
đưa rước công nhân đi về.
Cơm
nước xong, trời Sài Gòn nắng dịu, bảng lảng vào chiều, có gió và bụi lất phất
màu phấn bay trên đường, đường đã tấp nập người xe, ở một góc vắng tại tiệm cà
phê quen đường Nguyễn Thiện Thuật, nhìn ra đường, ngồi bên cạnh Đăng, Khánh Vân
thấy lòng mình ngập cả một trời hương muộn, tiếng ai hát “tình ngỡ xa xưa
nhưng tình bổng lại về” của một bài hát không nhớ tên, làm sống lại cái tuổi
mới biết thương của những ngày xưa, những ngày có Đăng chung bước đến trường,
chân sau chân trước, Khánh Vân nắm lấy tay Đăng, mĩm cười mà không biết nói gì
cho trọn những gì mình muốn nói, có thêm một đôi tình nhân trẻ nữa trên đường
phố Sài Gòn chiều nay, chiều Chủ Nhật.
4.
Phượng
tàn, mùa Hạ đi từ lâu, đâu đó có chút gió thu lành lạnh, hai ba bữa nữa tựu trường,
căn nhà trong cái hẻm cụt, góc ngã tư Cao Thắng – Hồng Thập Tự, giờ có thêm người
ở, người của muôn năm cũ, người mà trong nhà ai cũng biết và cũng thương như đã
thương như những ngày ở phố tỉnh năm đó, nhưng thương hơn, người xưa cảnh cũ
làm căn nhà cũng vui lây.
Thuyên Huy
Bất chợt nhớ chuyện của một người, của
một thời – xứ xa giữa thu 2025
Tìm Chốn Bình Yên & Nửa Cuộc Đời - Nguyễn Thị Châu
TÌM CHỐN BÌNH YÊN
Tôi về tìm lại chốn bình yên
Mặc
cho thế sự lắm ưu phiền
Nghiêng nghiêng bóng xế trên đường vắng
Tôi lại về đây lúc chiều nghiêng
Nắng Thu nhè nhẹ bước qua thềm
Đi tìm chốn cũ trong bóng đêm
Hương xưa còn thoảng trong làn gió
Tôi đã về đây buổi hoàng hôn
Kỷ niệm còn đây những buổi chiều
Mây trôi lơ lửng gió hiu hiu
Còn đâu những phút giây lưu luyến
Hoa lá giờ đây cũng buồn hiu
Mình tôi nhìn lá Thu rơi rớt
Nước mắt giờ đây đã hết rồi
Chỉ còn giọt máu trong tim héo
Cho người xưa cũ của đời tôi…!!!
25-6-2025
Nguyễn thị Châu
NỬA CUỘC ĐỜI
Hôm nay tóc đã bạc màu
Chợt nghe mưa khóc rì rào ngoài sân
Để lòng ta lại bâng khuâng
Nhớ về dĩ vãng trào dâng nghẹn ngào
Tuổi thơ lận đận biết bao
Cha mẹ mất sớm sống nhờ bà con
Lớn lên lấy một tấm chồng
Năm năm chung sống một lòng yêu thương
Một chiều nhận được tai ương
Tin anh ngã xuống trên đường hành quân
Đưa anh nằm xuống mộ phần
Hai khăn tang trắng cho nàng cho con
Cuộc đời nhiều nỗi long đong
Một đời thiếu phụ chờ chồng đi xa
Giờ đây hương khói đầy nhà
Thờ anh, tuổi mới hăm ba năm tròn
Đến nay tuổi hạc cao niên
Nhớ về ngày ấy mà đau đớn lòng
Cuộc đời như một dòng sông
Làm sao biết được khúc sông lớn
ròng…!!!
25-6-2025
Nguyễn thị Châu
Tháng Ngày Qua - Nhất Linh
Đầu hiên, về phía trông ra vườn, một
cái vườn trồng toàn roi, Minh và Giao cặm cụi ngồi học.
Bấy giờ đã quá trưa. Trời trong biếc.
Trên giàn thiên lý, mấy chùm hoa sẽ đưa trước gió, một vài tiếng gà gáy xa xa.
Giao đang học, tự nhiên thấy có cái cảm
giác rất lạ, chàng không ngửng đầu lên mà biết chắc có người đứng nhìn chàng,
Giao gấp sách lại, quay mặt ra phía vườn, thấy vợ bạn đương đăm đăm nhìn mình:
-Hú vía! Chị Minh! Tôi thoáng thấy
bóng trăng trắng lại ngỡ là ma.
Người vợ trẻ của Minh hơi có ý ngượng
vì thấy Giao bắt gặp mình nhìn trộm, mỉm cười nói chữa:
-Hai anh em học chăm quá, người ta đến
gần mà không biết.
Lúc bấy giờ nàng đứng dựa đầu vào cái
ghế dài, như có vẻ mỏi mệt, cặp môi hơi hé, cái gò má phơn phớt đỏ và đôi mắt
trong trẻo, sáng sủa như ánh nắng rực rỡ mùa hè. Nàng có cái vẻ đẹp lộng lẫy
quá, khiến Giao không dám nhìn lâu, nhất là không dám nhìn hai con mắt của
nàng, hai con mắt huyền bí như có cái mãnh lực vô hình làm cho Giao rạo rực,
náo nức cả trong lòng.
Nàng đưa ra mấy cành hoa nhài và bảo
chồng:
-Này cậu, cây nhài hôm nọ tôi mua ở
chợ về, có hoa rồi đấy, cậu lấy cốc cho nước vào để cắm hoa.
Minh, mắt vẫn để vào sách, nói:
-Tôi rất ghét thứ hoa nhài. Ngửi nó
đâm ra nhức đầu.
Nhưng Giao thì không nghĩ thế. Chàng
hiểu vì cớ gì người vợ Minh đem hoa đến, chàng cảm động. Từ hôm nói chuyện với
Minh rằng ở trên đời chàng không thích hoa gì bằng hoa nhài, thì chàng thấy vợ
Minh mua ngay cây nhài về trồng trong vườn, tưới xới săn sóc đến luôn luôn. Hôm
nay cây nhài nở mấy bông hoa đầu, vợ Minh ngắt hoa có ý nghĩa gì, Giao đã hiểu.
oOo
Đã hơn một tháng nay, Giao cố sức chống
lại với cái sức mạnh của ái tình nó như ngọn sóng muốn lôi cuốn chàng đi. Chàng
mới có mười bảy tuổi, cái tuổi còn non nớt lại gặp ngay một mối tình mãnh liệt
mà éo le.
Tuy Minh hơn Giao những bảy tuổi mà
hai người cùng học một lớp ở trường trung học. Giao trọ ở nhà một người quen
trong làng N… nhưng vì bên nhà Minh có vườn mát mẻ nên thường hay sang cùng ngồi
học với Minh, nhân tiện chỉ bảo giúp Minh, vì Minh học lực rất kém. Thế rồi
ngày một ngày hai, khi đi lại, lúc ra vào, Giao cảm vì cái sắc đẹp rực rỡ của vợ
Minh, mà xem chừng vợ Minh cũng cảm vì cái tình ngây thơ của một cậu học trò
còn trẻ tuổi đối với mình.
Nhưng hai người cùng sợ, cùng rụt rè,
không dám tìm cách để gần nhau, nhưng cũng không nỡ xa nhau, cứ để mặc cho cái
mùi hương nguy hiểm của ái tình nó mê đắm cả hai người.
Giao biết, biết là có một ngày kia
chàng sẽ phạm vào tội lỗi đối với bạn, chàng biết là sẽ làm một việc rất xấu,
nên chàng hết sức chống lại. Có khi chàng cố giữ hai, ba ngày không sang nhà bạn
nhưng cái vẻ đẹp kia, đôi má hồng, hai con mắt sáng kia như có sức mạnh bắt
chàng không thể nào quên được. Giao lại sang, tự an ủi mình rằng ngắm một người
đẹp đã tội lỗi gì đâu.
Cứ mỗi lần Giao sang ngồi học với
Minh thì người vợ hay lân la đến chỗ hai người nói chuyện vơ vẩn. Một hôm Giao
sang học bên nhà bạn, thấy cửa đóng, gõ thì người vợ ra mở. Nàng thấy Giao làm
ra bộ ngạc nhiên:
-À, anh Giao! Tôi lại tưởng có người
đến hỏi nợ, đã lo!
Rồi nàng cười, cười tít đi, đôi má lại
càng đỏ, hai con mắt lại càng trong, khiến Giao cuống quít, không biết nói làm
sao. Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
-Hôm nay anh Minh đi vắng!
Rồi nàng nhìn Giao như dò ý tứ. Giao
vội nói:
-Thế chị để tôi về thôi, mai sang.
-Về nhà bức chết, anh cứ vào ngồi mà
học… việc gì.
Rồi nàng nhìn lên cây, vỗ tay nói một
cách ngây thơ như đứa trẻ vui mừng:
-Roi chín rồi, để tôi lấy sào chọc mấy
quả anh ăn. Ngọt, giòn, mát như đường phèn.
Nàng vừa nói vừa chép miệng, rồi làm
bộ như nuốt nước bọt thèm, nhìn Giao cười.
Giao nhìn lên cây roi thấy trong đám
lá xanh mấy chùm quả nặng chĩu, sắc da mát và hồng, như muốn trêu giục người ta
hái xuống ăn ngấu ăn nghiến, lại nhìn đến người đàn bà đôi má hồng, tự nhiên
trong trí chàng nảy ra một sự so sánh, so sánh chùm quả ngon với người con gái
đẹp. Trong lúc say đắm về cách cử chỉ của nàng, Giao không nghĩ gì cả, nhưng
Giao sợ, sợ không thoát khỏi! Chàng biết chàng như con cá diếc con đã mắc vào
lưới, không tài nào thoát, nhưng cũng giẫy giụa trước khi chịu khuất phục.
Giao cắm đầu đi thẳng vào trong nhà,
ngồi giở sách ra xem, nhưng không tài nào đọc được một chữ.
Một lát thì vợ Minh đi vào, tay cầm một
chùm roi, tóc xõa cả xuống má, nhìn Giao hớn hở.
Giao đứng ngay dậy, thì nàng cũng vừa
bước lại gần sát bên cạnh; bốn mắt gặp nhau, Giao nhìn nàng thấy nàng đổi khác
hẳn mọi khi: cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng ngực nàng phập phồng, hai
con mắt nhìn đăm đắm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình.
Một lát, nàng sẽ nói:
-Mời anh xơi roi…
Lúc bấy giờ Giao như người mất hồn, mặt
nóng bừng, không nghĩ gì nữa, như bị hai con mắt đẹp huyền bí của nàng làm tê
mê… Giao khẽ để tay lên tay nàng – tay nàng còn cầm chùm roi – nàng để yên
không kéo ra, cúi đầu e thẹn. Bỗng tự nhiên, nàng giật mình, kéo mạnh tay ra,
lùi lại một bước, kêu:
-Con sâu! Trong quả roi có con sâu…
Giao nhìn, quả nhiên thấy trong một
quả roi to nhất, đẹp nhất, có con sâu từ từ bò ra leo lên tìm đường thoát. Giao
vội vàng ném quả roi ra vườn. Nhưng từ lúc đó, chàng như người ngủ mê mới tỉnh:
con sâu trong quả roi đã làm cho chàng biết rằng chàng sắp phạm một tội xấu xa
mà trong lúc mê man vì sắc đẹp chàng không nghĩ tới. Chàng ném quả roi xong,
quay lại thấy vợ bạn đương nhấc bức mành, bước vội vào nhà trong như người đi
trốn. Giao thở dài, cắp sách về nhà trọ, và từ đấy, chàng không tới nhà bạn nữa.
oOo
Bảy năm sau… trong bảy năm đó vì việc
nhà, Giao phải cách biệt hẳn Hà Nội, phiêu lưu nay đây mai đó; trên đường đời,
chàng đã gặp bao nhiêu là mỹ nữ, nhưng chàng không sao quên được người xưa.
Bảy năm sau, nhân về Hà Nội, chàng
thuê xe xuống làng N… để thăm người bạn học mà chàng phải xa cách, mà nhất là
thăm người mà bảy năm về trước có cái sắc đẹp đã làm rung động tấm linh hồn
ngây thơ của chàng.
Tình cờ lúc đó lại vừa đúng tháng
sáu, đúng mùa roi chín.
Tuy đã lâu năm, nhưng chàng nhận ngay
được ngõ vào nhà bạn, cái cổng gỗ bây giờ đã cũ, mấy cây roi có to hơn, nhưng
trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng chĩu vẫn một sắc da mát và hồng như trước.
Chàng gõ cửa, thấy trong nhà có tiếng
người đi ra. Cửa mở, một người đàn bà, tay bế con, thấy Giao, buột mồm kêu:
-Anh Giao!
Nàng nhận ngay ra được cậu học trò, bạn
học của chồng trước.
Nàng mừng quá, chỉ nói được thế thôi
rồi đứng nhìn Giao từ đầu đến chân. Nhưng Giao trông nàng lấy làm lạ, ngạc
nhiên, hơi ngờ ngợ. Chàng lãnh đạm hỏi:
-Bác Minh có nhà không, bác?
Nàng vừa cài then cửa vừa nói:
-Nhà tôi đi vắng.
Giao bước vào thấy cảnh sắc vẫn
nguyên như cũ: vẫn giàn thiên lý ở đầu nhà, dăm chùm hoa nở, vẫn cái án thư,
hai cái kỷ ở đầu hiên, chỗ mà chàng vẫn ngồi học với Minh năm nọ.
Lúc ngồi nói chuyện, uống nước với vợ
Minh, Giao có ý ngắm kỹ nàng vì Giao không rút rát như trước mà không dám nhìn
lâu nữa – nhưng bây giờ còn đâu cái đẹp nồng nàn, còn đâu đôi má hồng, hai con
mắt trong trẻo sáng sủa như nắng rực rỡ mùa hè…
…Tháng, ngày qua… sắc đẹp tàn…
Nàng thẫn thờ nói:
-Chóng thật! Mới ngày nào, bây giờ
đã…
Nàng ngẩng nhìn lên tường thấy bóng
mình in trong cái gương to để đấy, cái bóng một người đàn bà đứng tuổi, không
có gì là vẻ thanh xuân, nàng chạnh tưởng tới cái sắc đẹp lộng lẫy khi xưa nay
đã tàn. Nàng nhìn Giao, Giao nhìn nàng, hai người cùng một ý nghĩ như nhau.
Nàng buồn rầu, nhắc lại:
-Chóng thật!…
Rồi nàng cố gượng làm bộ vui tươi, bảo
Giao:
-Bác đến may quá, vừa đúng mùa roi
chín… để lấy mấy quả bác xơi.
Giao ăn roi nhìn người nói nửa đùa nửa
thật:
-Roi vẫn ngọt, vẫn mát như đường
phèn… nhưng bây giờ không có sâu nữa.
Rồi hai người cùng mỉm cười, cái mỉm
cười chua chát, biết bao ý nghĩa như nhắc hai người ôn lại chuyện xưa. Giao bùi
ngùi nhớ lại cái mơ mộng ngày trước, cái mơ mộng yêu một cách thiết tha và
không chính đáng, một cái sắc đẹp mà bây giờ chàng mới biết là ảo mộng, mong
manh không giá trị gì!
Chuyện vẩn vơ một lúc, Giao đứng dậy
xin từ cáo. Nàng cũng tiễn theo ra.
Lúc đi qua chỗ ngồi học ngày trước,
chàng thấy trên án thư một cái cốc trong có cắm mấy cành nhài mà lúc vào chàng
không để ý đến. Mấy bông hoa nhài trắng như mấy cái nụ cười âu yếm nhắc lại
trong trí Giao câu chuyện tặng hoa ý nhị năm xưa. Mấy bông hoa có lẽ vô tình cắm
đó đã làm cho Giao có cái ảo tưởng rằng trong bảy năm nay, lúc nào nàng cũng
còn nhớ đến cậu học trò, cậu học trò đã trót mê nàng vì cái sắc đẹp mà bây giờ
không có nữa. Cái ảo tưởng ấy làm cho Giao man mác trong lòng.
Trước khi từ biệt, Giao nhìn thẳng
vào mắt nàng như để tỏ lời cám ơn nàng trong bấy lâu vẫn để bên lòng một chút
tình thương yêu chàng, chút tình ấy kín đáo hơn cái sắc đẹp kia, nhưng lâu bền
hơn.
Tháng ngày qua… sắc đẹp tàn… nhưng
cái hương thơm của tình thương yêu tuyệt vọng, u uẩn của nàng đối với Giao còn
phảng phất, không bao giờ phai.
Nhất Linh
Trích từ tập truyện ngắn “Anh phải sống“,
Khái Hưng và Nhất Linh.





