HƯƠNG MUỘN
Chuyện của những người có người thật
nhưng tình tiết, nhân vật và bối cảnh không thật
1.
Chiều thứ bảy, Sài gòn nắng, cái nắng của những ngày cuối hạ đầu thu,
cái nắng bâng khuâng, lơ đảng của trời ngấp nghé giao mùa, đường phố vẫn là đường
phố ngựa xe xiêm áo, quần là áo lụa.
Định vào thư viện nhưng thôi, Đăng tẻ ngang qua đường Lê Lợi, thả bộ lên
hướng quốc hội, tới góc đường ngã tư không biết chiếu phim gì mà người ta đứng
đông nghẹt trước rạp Casino, nhìn tới nhìn lui, chờ đèn băng qua bên kia tiệm
kem Mai Hương, nhưng bất chợt đứng khựng lại, cô gái áo dài tím nhạt, khăn thu màu
lam nhạt quàng cổ từ bên kia đường vừa tới, cũng khựng lại, hai người nhìn nhau
ngờ ngợ, anh buột miệng “phải chị Khánh Vy, hông?”, cô nàng đầu gật đầu
“Đăng hả?”.
2.
Nhà nghèo, ở cuối ấp chợ xã, ba Đăng mất sớm, má tần tảo, lam lũ trồng
chừng ba bốn chục luống khoai lang Như Ý trên miếng đất xéo cuối ấp chợ xã, bán
cho bà con trên chợ, cũng may nữa là có bạn hàng từ dưới quận lên mua mảo khi
có nên hai má con tạm có đủ ăn đủ mặc, ít khi bị thiếu trước hụt sau.
Trường tiểu học xã gần nhà, Đăng học giỏi, lễ phép dạ thưa, thầy cô ai
cũng thương, đám nhỏ bạn quê, bạn chợ đều mến. Cuối năm lớp Nhất, cả chợ chỉ có
một mình Đăng thi đậu vào trường trung học tỉnh, má Đăng mừng quá đổi nhưng lại
lo cũng không thua gì, có chút xíu rồi lên tỉnh, xa nhà, đất lạ, một thân một
mình làm sao bà an tâm, lẩm nhẩm suy tới nghĩ lui, bao nhiêu ngày rồi mà cũng
chưa biết tính sao đây, nhìn con vui chơi, hỏi này hỏi kia mà rầu thúi ruột.
Một hôm cô Sen, cô giáo lớp Nhất
của Đăng tới nhà thăm, chung vui trước khi về dưới An Tịnh nghỉ hè, mang theo
gói quà to tướng mà cô thầy cả trường chung lo, như món quà thưởng Đăng thi đậu,
má Đăng bùi ngùi, xúc động, cám ơn mà rưng rưng nước mắt, cô Sen thấy bà xem ra
không được mừng trọn vẹn, có cái gì đó lấn cấn, cô hỏi ngay, bất ngờ quá, bà
thú thiệt chuyện không biết kiếm cho Đăng chỗ ở trên tình, lạ ngắt lạ ngơ, bà
có quen biết ai đâu, túng quá chắc phải nhớ tới bác từ dưới chùa, vì bác thường
lên xuống trên đó.
Cô Sen, thở phào, nắm tay má Đăng, tưởng chuyện gì, bà đừng lo, mọi thứ
để cô sắp xếp cho, cô có người dì bà con có chồng làm việc trên tỉnh, hai vợ chồng
hiền hậu tử tế lắm, thuần đạo Phật nữa, rất thương người. Quà thầy cô cho nhiều
lắm, nhất là mấy sấp vải trắng, xanh dương để may đồng phục và chồng vở, viết
chì viết mực, cô Sen về rồi, nhắc là cô sẽ lo đúng ngày nhập học, an tâm, hai
má con mở quà rồi bà khóc, Đăng không biết gì cũng thút thít khóc theo, rồi từ
hôm đó trở đi, bà dặn dò anh ta mọi thứ, từ phép tắc chào hỏi, đi thưa về trình
như ở nhà, ăn uống nhỏ nhẹ, không chơi đùa phá phách, phụ giúp việc nhà với người
ta, nhắc đi nhắc lại bảo Đăng phải nhớ, làm sao mà anh nhớ nổi nhưng thói quen
từ ngày lớn khôn được má dạy, làm quen rồi cho nên khỏi cần nhớ nhiều. Trước
ngày tựu trường chừng hai ba ngày, cô Sen trở lên thật sớm, rồi cô trò đón xe
đò lỡ dưới quận, lên tỉnh.
*
Trước ngày vào học một hôm, hai má con theo cô Sen lên tỉnh, mang theo
cái rương thiếc nhỏ, đựng áo quần, tập viết và mấy thứ lặt vặt, thêm một chút
tiền mặt mà cô Sen và má Đăng cho. Vợ chồng bà dì, dì Trâm ân cần, thăm hỏi má
đủ thứ từ món ăn tới giấc ngủ, bảo má đừng lo gì hết, cứ yên lòng, để đó gia
đình bà lo cho.
Nhà còn có hai chị em, chị Khánh Vy, năm này học lớp đệ Tứ, em Khánh
Vân, cũng vừa đậu đệ Thất như Đăng năm nay. Má, cô Sen và Đăng vừa vào tới cổng
rào thì hai chị em đã chạy úa ra, cúi đầu dạ chào, nắm tay cô Sen mừng reo tở mở,
bà dì ra tới, hai chị em đứng lùi lại sau, nhìn Đăng cười cười, khi thấy anh
khoanh tay cúi đầu chào, má Đăng ngại ngùng, không biết nói gì, bà dì nắm tay
bà mời đi vào, má Đăng luýnh quýnh rối chân, cô chị Kháng Vy, chạy tới phụ bưng
cái rương thiếc một tay với cô Sen, ba cô cháu nhìn Đăng nói gì đó, Đăng bẻn lẻn
theo sau chân má vào nhà.
Cả nhà theo ra đưa cô Sen và má
Đăng ra về, bà đỏ cay mắt rấm rứt hai tiếng cám ơn bà dì Trâm không biết bao
nhiêu lần, làm cô Sen cũng rưng rưng, Đăng đứng nhìn, bà ôm con, rờ đầu rờ tay,
bùi ngùi dặn Đăng nhớ lời má dặn, cô Sen ra đường đón xe lôi máy, rồi cũng phải
về, xe lôi máy chạy đi, bà bật khóc, Đăng đứng chết trân ngay cổng rào, kêu lớn
theo “má ơi, má ơi”, bật khóc ngon lành, Khánh Vân nhìn anh ta muốn khóc
theo, chị Khánh Vy nắm tay Đăng vổ về an ủi, trời phố tỉnh chập chững chiều
lên. Nhà ở quê đêm nay và cũng từ đêm nay má Đăng chỉ có một mình, thui thủi, ở
đây xứ người Đăng cũng thui thủi một mình.
*
Nhà bà dì, căn biệt thư kiểu Tây, nằm gọn sau cái sân trước đầy hoa Sứ
trắng, hàng rào gạch cao tới chừng nữa người, với cái cổng sắt sơn trắng, ở bên
bờ nhánh sông chảy chia đôi phố tỉnh, trên đường tới trường không mấy xa, và
con đường này cũng là đường xe đò lớn đi về.
Ông dượng, dượng Tín, làm chủ sự phòng tài chánh của ty Xã Hội tỉnh. Dượng
Tín hiền lắm, cười nhiều ít nói, bà dì Trâm thì nhanh nhẹn, quán xuyến mọi thứ
trong nhà, nói năng chưa hề lớn tiếng. Ông dượng đi làm bằng xe Vét – pa, còn
có cái xe Citroen “con cóc” màu xám trong nhà xe. Cái phòng nhỏ nhắn, nằm
sát bên cạnh phòng của chị Khánh Vy, cả hai đều có cửa sổ ngó ra vườn sau, con
đường nhỏ lát gạch nâu giữa sân, đầy hoa Mười Giờ bao quanh hai ba gốc cây Dạ
Lý, chờ tỏa hương đêm.
Đăng thừ người, rụt rè nhìn, ở một góc phòng, cái giường ngủ gỗ nâu trải
nệm mỏng, cái bàn học có kệ để tập sách kề bên, cái tủ thấp nhiều hộc để quần
áo, cái nào cũng mới, cứ nhìn mà chưa biết phải bắt đầu làm gì, thì bà dì Trâm
tới, hai chị em theo sau lưng, bà từ tốn chỉ quanh “mấy cái này để cho con
đó, con muốn sắp xếp như thế nào thì con làm nghe”, chị Khánh Vy bước vào “để
chị chỉ cho”, Khánh Vân cũng ùa vào “em phụ nữa nghe”, bà dì cười gật
đầu bỏ đi ra, mới đầu còn lo nhưng Khánh Vân, vừa làm vừa luôn miệng, líu lo chỉ
hết cái này tới cái kia, dặn Đăng điều này điều nọ, phút giây bỡ ngỡ vụt qua,
Khánh Vân lăng xăng nói cười, chuyện đi học chuyện đi chơi, chị Khánh Vy bổng dưng
bật cười thành tiếng “con nhỏ này lộn xộn quá”.
Bữa cơm chiều, ngồi kế bên Khánh
Vân, Đăng ngượng ngập, ăn không dám ăn, ông bà dì dượng thúc ăn tiếng một tiếng
hai, hai chị em cũng vậy, cũng gấp cái này cái kia cho, ông bà dì dượng nhìn thằng
nhỏ, nhìn hai chị em, buột miệng “tôi nghiệp”. Đêm đó, đêm đầu tiên xa
nhà, xa má, Đăng cứ khóc, trằn trọc nhớ, nhớ mấy củ khoai lang nướng buổi sáng,
nhớ đám gà con vàng óng, tíu tít theo chân con gà mẹ tìm mồi trên sân sau, nhớ
ngọn đèn dầu má ngồi tập cho Đăng nhưng chữ viết đầu tay, nhớ cái áo màu đen bạc
màu, cái nón lá rách cũ mèm của má đi tưới những luống khoai một sương hai nắng,
nhớ tiếng trống tan trường, nhớ đủ thứ, nhớ tới mức ngủ thiếp đi.
Nhập
học, quen dần với đám bạn cùng lớp, có đứa cũng từ làng xã xa lên, mầy mầy tao
tao làm Đăng cũng nguôi ngoai, quen dần với phố xá. Buổi sáng đi học, trên đường
tới trường, chị Khánh Vy đi với mấy chị bạn trước, Đăng và Khánh Vân nói cười
theo sau, ngày này qua ngày nọ, giờ ra chơi, bên lớp con gái Khánh Vân chạy qua
sân trường kiếm Đăng trước, rồi mới trở lại chơi với đám bạn gái đứng chờ xa
xa.
Mấy tuần đầu, sáng thứ bảy nào cũng vậy, chị Khánh Vy chở Đăng bằng
Honda ra bến xe ngoài chợ, trả tiền xe, sắp ngồi ghế ngay sau lưng bác tài xế
nhắc anh lơ, nhớ ngừng cho Đăng xuống chợ xã, chị cũng không quên dặn, nhắc tới
nhắc lui bảo Đăng nhớ kêu xe ngừng, chị đứng chờ cho đến khi xe chạy. Ở nhà
quanh quẩn bên má, kể chuyện học chuyện ăn chuyện phố phường, má vui mừng khôn
xiết khi nghe Đăng nói ông bà dì dượng thương nó nhiều lắm, chiều chủ nhật má
Đăng đưa ra đường lộ, đón xe đò gởi theo trở lên tỉnh lại, nghe con nói mà bà mừng
không biết bao nhiêu, cám ơn ông bà trời Phật nhưng cũng lo không biết bao
nhiêu, món nợ ân tình sâu nặng này biết chừng nào mới trả được. Đăng cũng khá
thông minh nên quen đường, cứ thả bộ bên lề bờ sông về nhà ông bà dì dượng
không có gì khó.
Quen dần với lớp học với bạn bè, chừng đâu hơn hai tháng sau đó, sáng thứ
bảy với ba bốn đứa bạn cùng lớp, cũng dân quê miệt dưới nhà Đăng, cùng đứng bên
này cổng trường, chỗ xe đò lỡ dưới quận thường ngừng, đón xe, tới chỗ đứa xuống
trước, đứa xuống sau, vậy thôi, riết rồi quen nước quen
cái, không còn sợ sệt nữa, chị Khánh Vy cũng
không cần chở tới chở lui.
*
Cuối hè năm đệ Tứ, Đăng chuyển về trường trung học dưới quận, năm nay vừa
có thêm lớp đệ Tam, bốn năm nay bà thui thủi sớm hôm một mình, Đăng ở trên tỉnh
buồn lắm, thương má nhiều lắm nhưng hai má con đành phải ráng mà chịu, nay có lẽ
về dưới này thì tiện biết mấy, sáng đi chiều về má con sẽ hủ hỉ bên nhau trong
những ngày tuổi đời còn lại của bà. Cô Sen đã lập gia đình và đổi về dạy dưới
quê chồng đâu đó ở Trà Vinh, cô có đến từ giã má Đăng, gởi lại chút quà, nhắc
Đăng ráng học.
Trước này nhập học chừng hơn mười ngày, Đăng trở lên tỉnh, cây phượng
già gốc sân trường còn đôi chút hoa nở muộn, mùa hạ buồn, Đăng báo tin, cám ơn
bà dì ông dượng chuyện chuyển về trường quận, hai chị em ngồi nghe, Đăng đứng
khoanh tay báo tin mà nước mắt ràng rụa, Khánh Vân quay mặt không nhìn, cũng
khóc. Chị Khánh Vy gượng cười, nụ cười buồn , ông bà dì không nói gì hơn, chỉ dặn
là về dưới nếu cần gì, gặp khó khăn gì thì lên cho ông bà dì biết, vậy thôi.
Đăng thu xếp, sách vở, áo quần, những thứ lặt vặt của mình, vào cái
rương thiếc và hai ba túi xách vải, Khánh Vân không còn lăng xăng “Đăng hởi
Đăng ơi” nữa, đứng ở bên cửa phòng mình, nhìn qua buồn rười rượi. Chị Khánh
Vy phụ tay, mang đồ ra cổng đón xe lôi máy. Nhìn lại căn phòng, một lần nữa
Đăng bật khóc dù đã cố ngăn, ông bà dì dượng theo ra, Đăng cúi đầu xá ông bà ba
xá thay ba lạy, mắt bà dì ngấn lệ, Khánh Vân và Đăng đứng bên nhau, nói với
nhau gì đó, nhiều và nhiều lắm, xe lối máy chờ ngoài đường, xe chạy đi, Đăng
không dám nhìn lại, sợ phải khóc nữa.
Bữa cơm chiều buồn, dường như không ai muốn ăn, ai cũng ngồi riêng một
mình, lặng thinh, Khánh Vân thở dài, cái thở dài khó tả của cái tuổi vừa mới biết
thương, thương gì đó, ai biết, căn nhà buồn theo.
Trước ngày tựu trường một hôm, hai má con đón xe lên tỉnh thật sớm, đến
nhà một lần nữa nói lời từ biệt. Ông dượng đi làm không có nhà, trong phòng
khách, má Đăng vẫn khúm núm nhà quê như lần trước lên có cô Sen, má sụt sùi cám
ơn công ơn của ông bà dì dượng, bà cũng xá ba xá thay ba lạy, nói tiếng mất tiếng
còn, nước mắt tuôn dài, bà dì ôm chầm lấy bà rồi cũng rưng ngấn lệ, chị Khánh
Vy ngồi ở góc phòng khách cũng không kềm được xúc động, vut bỏ chạy ra ngoài mà
nước mắt lưng tròng. Bên ngoài, Khánh Vân ngồi bên Đăng thật lâu mà không ai biết
nói gì bây giờ, dù có biết bao nhiêu cái tuyệt vời của bốn năm muốn nói, nhìn
nhau rồi nhìn ra sân, trời sáng một màu vàng hực nhưng hình như với họ chỉ là
xám đen ảm đạm.
Rồi cũng phài chia tay, họ đi rồi, một lần nữa người buồn, căn nhà cũng
buồn theo.
*
Trường mới, năm học mới, bạn bè mới, thầy cô mới, mọi thứ bề bộn, xe cộ
sáng đi chiều về vài tháng mới tạm ổn, trước ngày đưa ông Táo mấy hôm, Đăng mượn
cái xe Honda của người bạn cùng lớp, ban sơ thân tình, dân chợ quận, sáng chạy
một mạch lên tỉnh, tới khúc quanh đường vào nhà Khánh Vân, lòng vui rộn rã gặp
lại người xưa, nói xưa chứ mới đây mà xưa nổi gì. Dựng xe trước cổng, ngõ trước
ngõ sau vắng tanh, cổng đóng kín không rộng mở như trước đây, ngờ ngợ, Đăng khẻ
đập mạnh gọi vào trong , chờ, không lâu lắm, có chị gái chậm đi ra, Đăng đứng
chết trân, gia đình của Khánh Vân đã dọn về dưới Sài Gòn mấy tháng nay rồi, căn
nhà bán lại cho chủ mới, chị là người làm công, chỉ biết tới chừng đó thôi, chị
nấn ná chờ xem còn hỏi gì thêm, Đăng ngẩn ngơ, cám ơn mà không nói thêm gì được
nữa, chị cũng chào, bỏ đi vào, không ngó lại.
Đăng đứng dựa vào cái xe Honda, tưởng chừng như sắp ngã, thở dài nhìn
con đường quen ngày nào, ngày hai đứa chân trước chân sau, “Đăng ơi Đăng hởi”.
Là vậy rồi, thôi, lần sau cùng, chào không hẹn căn nhà của một trời kỷ niệm nhiều
vui ,chưa thấy buồn. Đăng bỏ phố tỉnh đi, nơi này không còn gì để trở lại nữa, cũng không có lần nào gặp lại ông bà dì dượng
và hai chị em từ ngày đó.
*
Xong mùa thi năm cuối Phú Thọ, chờ tốt nghiệp, thì má Đăng mất vì cơn bệnh
sốt xuất huyết tái phát, không có dấu hiệu gì báo trước. Đành vậy thôi, anh đưa
má về Thạnh Phước chôn bên cạnh mồ ba, bá má giờ sẽ có nhau ở một chốn bình yên
miên viễn, đau đớn, quặn thắt biết chừng nào nhưng không khóc bù lu bù loa như
ngày còn con nít, khóc mà nuốt lệ trong lòng, nổi lòng ôm mang từ đây. May mà
còn đôi ba người bạn cũ của ba của má, Đăng nhờ họ trông coi giùm luôn hai nấm
mồ, căn nhà ở chợ xã thì chú tư Biên, chủ cái xe lam chở người đi chợ quận về
chợ xã mua lại, cái xe mà Đăng đi về suốt mấy năm học trường quận, chú sẽ lo
bán miếng đất trồng khoai lang, chú giữ tiền bán được, sẽ giao lại, Đăng chào từ
biệt, nói với vợ chồng chú, cứ xài đi đừng lo chuyện đó.
3.
Sáng chủ nhật, cũng cái nắng cuối
hạ đầu thu, đường phố thưa người, còn ngày nghỉ làm, xuống xích lô đầu hẻm, con
hẻm cụt khá rộng, gần cuối ngã ba Cao Thắng – Hồng Thập tự, Đăng lửng thửng thả
bộ đi vào tới nhà, chưa tới cổng, cái cổng sắt sơn trắng, cao không hơn đầu gối,
khiêm nhượng làm kiểng, che hờ che hửng cái sân trước nhỏ, đầy hoa Mười Giờ như
những cụm hoa Mười Giờ của căn nhà trên phố tỉnh ngày nào, chị Khánh Vy nhanh
ra, vừa giục anh vừa quay vào trong, cửa chính mở rộng, kêu lớn “má ơi, Đăng
tới đây nè”, chưa dứt tiếng “đây nè” thì bà dì đã ngay trước thềm cổng,
Đăng theo bên chị, cúi đầu, ba người mừng như nhau muốn khóc, bà nắm chặt tay
anh “trời ơi, thằng Đăng đây hả con?”. Vào trong nhà, hai má con lăng
xăng, hỏi hết chuyện này chuyện kia, nhất là chuyện năm sáu năm qua, anh ở đâu,
anh làm gì, chưa hết câu này thì đã tới
câu khác, Đăng nhìn quanh, không còn ai
nữa, biết ý, bà cho biết Khánh Vân chở ông dượng đi mua gì đó ngoài chợ Sài
Gòn, chắc cũng sắp về, bảo Đăng phải ở lại ăn cơm trưa mới được.
*
Có
tiếng xe Honda vào sân, chị Khánh Vy kéo Đăng đi ra nhà sau, bà dì nhanh chân
bước ra cười “cha hai cha con mua cái gì mà tay xách tay mang dữ vậy, tới giờ
này mới về?”, ông dượng khệ nệ xách túi đi vào, Khánh Vân từ từ đẩy xe lên
trên bậc thềm, ngay cửa sổ ngó ra đường, thấy bà dì cứ nhoẻn miệng cười cười
không nói gì hết, ông dường cũng phì cười “cha bà này bữa nay lạ lạ à nghe”,
bà vẫn vậy “vô nhà đi, có gì đâu, cười mà ông cũng không cho hả?”, Khánh
Vân nhìn má mình lầm thầm “má bữa nay thấy lạ thiệt”.
Không
đợi hai cha con dẹp đồ xong, bà bỏ ra
nhà sau, cha con vẫn còn loay hoay cái này cái nọ, bà dì, chị Khánh Vy và Đăng
đi lên, bà lên tiếng “cha con ông dòm đi, nhà có khách, ai đây nè”, hai
người buông tay, quay lại, Khánh Vân chết trân, buột miệng “anh Đăng”,
ông dượng mắt già đỏ hoe “thằng Đăng hả con?”, chỉ ngần đó, năm người
không nói được tiếng nào, cứ nhìn nhau mà rưng rưng nước mắt.
Bữa
cơm trưa nói nhiều hơn ăn, mặc tình cơm canh nguội lạnh, nói mà tiếc nuối, nói
mà mừng vui, tên ai không nghe mà cứ “Đăng ơi Đăng ơi” như những ngày
cũ, rộn rã tiếng cười, chuyện hôm qua còn dài, cả nhà hỏi, giữa năm đệ Tam trường
quận năm đó, Đăng có trở lên tỉnh, lại nhà nhưng gia đình bà dì, ông dượng đi rồi,
chủ mới không biết hiện ở đâu, buồn quá tưởng chừng như mất mát cái gì đó,
không diển tả được, và cái buồn đó cứ theo mình suốt những năm sau, và cuối
cùng, anh cho biết má đã mất. Nghe tin này cả nhà lặng thinh, bùi ngùi cố nén
xúc động, chỉ có Đăng, lần này lại bật khóc.
Khánh
Vân ra trường, đang dạy ở trường trung học Sương Nguyệt Ánh, chị Khánh Vy làm
cho ngân hàng Pháp Á trên đường Nguyễn Huệ, ông dượng vừa nghỉ hưu trí năm nay.
Tốt nghiệp Hóa học Phú Thọ, làm việc cho trung tâm Nguyên tử năng Đà Lạt chừng
hơn một năm, giờ về lại Sài Gòn, vừa nhận việc ở công ty SAKYBOMI, bên bến Bình
Đông, phường Rạch Cát vơi chức vụ trưởng phòng kiểm ngh iệm hai tuần nay, đang ở
tại căn nhà mướn nhỏ gọn, ở trong cư xá hỏa xa Petrus - Ký, đi làm thì có xe
đưa rước công nhân đi về.
Cơm
nước xong, trời Sài Gòn nắng dịu, bảng lảng vào chiều, có gió và bụi lất phất
màu phấn bay trên đường, đường đã tấp nập người xe, ở một góc vắng tại tiệm cà
phê quen đường Nguyễn Thiện Thuật, nhìn ra đường, ngồi bên cạnh Đăng, Khánh Vân
thấy lòng mình ngập cả một trời hương muộn, tiếng ai hát “tình ngỡ xa xưa
nhưng tình bổng lại về” của một bài hát không nhớ tên, làm sống lại cái tuổi
mới biết thương của những ngày xưa, những ngày có Đăng chung bước đến trường,
chân sau chân trước, Khánh Vân nắm lấy tay Đăng, mĩm cười mà không biết nói gì
cho trọn những gì mình muốn nói, có thêm một đôi tình nhân trẻ nữa trên đường
phố Sài Gòn chiều nay, chiều Chủ Nhật.
4.
Phượng
tàn, mùa Hạ đi từ lâu, đâu đó có chút gió thu lành lạnh, hai ba bữa nữa tựu trường,
căn nhà trong cái hẻm cụt, góc ngã tư Cao Thắng – Hồng Thập Tự, giờ có thêm người
ở, người của muôn năm cũ, người mà trong nhà ai cũng biết và cũng thương như đã
thương như những ngày ở phố tỉnh năm đó, nhưng thương hơn, người xưa cảnh cũ
làm căn nhà cũng vui lây.
Thuyên Huy
Bất chợt nhớ chuyện của một người, của
một thời – xứ xa giữa thu 2025

No comments:
Post a Comment