QUÁN HỚT TÓC
Quán hớt tóc là
nơi bọn thanh niên trong làng tụ tập tán dóc, bàn chuyện chiến tranh hòa bình,
các nhân vật Xuân thu Chiến quốc, chuyện cô nào sắp lấy chồng, phim cao bồi Viễn
Tây, mùa khoai mùa lúa, chuyện đi quân dịch, vui buồn thi cử.
Nguyễn Đức
Tùng
Khi tôi còn bé, mỗi tháng phải trình
diện quán ấy một lần, lệnh của ba tôi. Ông rất ghét bọn con trai để tóc dài, mà
chẳng cứ gì ông, người lớn, thầy cô giáo của tôi, đều thế. Tôi lò dò bước vào
quán, vách đất trộn phân trâu quét vôi trắng mái tranh có dàn mướp bò qua, nhìn
quanh tìm chỗ ngồi, dỏng tai nghe chuyện khách, dân cày cấy, học sinh, viên chức.
Người thợ cắt tóc ngoài ba mươi
tuổi, sau những năm giang hồ trở lại chốn quê, đem theo nhiều câu chuyện xứ người,
hay do anh bịa ra. Anh có tài kể chuyện, thích đọc báo, có cây đàn guitar hay
mandolin treo cửa. Mà thợ hớt tóc nào chẳng biết chơi guitar tưng tưng vài nốt
khi ế khách hay ngoài trời thu vàng rụng lá? Anh hay hát Tàu đêm năm cũ của
Trúc Phương: Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi biết người ra đi
vì đời, Trở gót bâng khuâng, tôi hỏi lòng đêm nay buồn không. Chiếc
dao cạo sắc của anh, kêu xoèn xoẹt trên sợi da nâu như thắt lưng mòn vẹt, khăn
quàng cổ xếp nếp, cái tông đơ còn già hơn tuổi tôi, cái ngoáy tai bằng đồng nhỏ
xíu, sáng loáng, hấp dẫn tôi. Tôi lớn dần lên với cái quán ấy, già đi cùng với
người thợ hớt tóc, được sống cùng với họ những tháng năm hạnh phúc của một xứ sở
nghèo nhưng tươi tắn. Cái quán hớt tóc ấy, nằm gần kề quốc lộ Một, phía dưới đường
xe lửa bỏ không mọc cỏ lau trắng, sau đập nước, bạn còn nhớ không? Cái quán nằm
giữa tiệm tạp hóa và quán bún lòng thả, phía trước có cây dứa dại sau lưng là bụi
tre la ngà cú rúc chiều chạng vạng. Nhìn vói qua sông, bên kia đường quốc lộ,
bao giờ tôi cũng ngồi đó, ngắm tờ nhật trình dán vách đất, đọc mọi thứ, tin tức
đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm làm tôi giựt mình, lát sau mới nhớ ra đã bốn
năm.
Thời nhỏ bạn hoàn toàn lệ thuộc vào
người lớn, mà họ thì có quan niệm đơn giản về trẻ con, đã cắt thì cắt ngắn, làm
cho mặt mũi sạch sẽ, cắt tóc càng ngắn càng đỡ tốn tiền cắt lại, và bọn chúng
không phải cạo râu rửa mặt nên thợ làm nhanh, loáng đã xong, không kiểu cọ gì
ráo trọi. Nhưng khi tôi lên mười một tuổi, vừa thi đỗ vào trung học, tôi không
còn thích để mặc người lớn lãnh đạo nữa, sau một mùa hè chịu mái tóc carré,
nghĩa là rất ngắn, trên chỏm cũng ngắn, kiểu lính, quyết để tóc dài, thời ấy
mái phía trước dài, tóc mai kéo xuống gần cằm, hợp với áo sơ mi cổ cò, học sinh
đi học lén bỏ áo ngoài quần vì cho áo vào quần thì quê lắm, mặc quần tây không
có thắt lưng. Thời ấy bắt đầu có mũ lưỡi trai baseball kiểu Mỹ, kéo thật sát
mái đầu để tóc phía dưới bay lòa xòa, có đứa ba trợn còn xoay ngược cái mũ, vậy
thì tôi chuẩn bị cắt một mái tóc như vậy, kiểu tango, sau khi đã nuôi được tóc
khá nhiều đến nỗi mẹ tôi chú ý và kéo tôi lại, dúi năm đồng vào tay, bắt đi hớt
ngay tắp lự. Người thợ hớt tóc, sau khi mài dao lên sợi dây da xoành xoạch làm
cho lưỡi mỏng như lá lúa, nếu bạn từng đọc truyện ngắn Lưỡi dao cạo của Nabokov
kể chuyện hai kẻ thù cũ gặp nhau ở Bá Linh, bạn sẽ hình dung ra tiếng động ấy.
Những người đến quán thường gọi lớn
lên kiểu tóc theo cách riêng của họ, cắt carré tức là cắt ngắn như binh nhì, kiểu
Dũng Thanh Lâm tức là tóc chải phồng lên, mái hất ra sau, kiểu tango như các vũ
sư Nam Mỹ lả lướt. Quán hớt tóc nằm trên đường đi học nên khi tan trường tôi
thường ghé lại nghỉ chân, những người khác cũng bày cờ tướng, cờ domino ăn thua
trong quán. Người thợ hớt tóc mặt đầy tàn nhang, dáng cao ráo, để tóc đúng mốt,
đôi khi nhìn nghiêng đẹp như Hùng Cường hay Alain Delon. Anh thỉnh thoảng gọi từ
quán lòng thả thứ cháo huyết heo, hay lòng xào nghệ, anh bảo những thức ấy giúp
cho những sợi tóc vụn hít vào phổi mỗi ngày bị tiêu tán đi, không nằm lâu trong
người. Quán nghèo, nên chỉ có một bộ tông đơ, một cái kéo, cái gì cũng một, bộ
ráy tai gồm có một cái nhíp, một que để gắp ráy tai, bông gòn, sợi chỉ dài tôi
không biết để làm gì. Anh bảo rằng đúng ra anh cần phải có ba bộ tông đơ khác
nhau, một dùng cho tóc cứng rễ tre, một dùng tóc mềm như con gái, một nhỏ hơn
dành cho trẻ con. Anh vừa làm việc, vừa trò chuyện với khách, huýt sáo hay hát
ư ử một điệu nhạc. Về sau khi tôi lớn hơn nữa, anh dùng kéo để cắt nhiều hơn
dùng tông đơ, bảo cắt kéo thì tóc đẹp. Khi cắt xong anh còn dùng bột phấn talc
thơm thơm xoa mặt, tôi rất thích. Khi bọn con nít ngồi lên ghế, anh kéo một cái
đòn ra để gác chân. Tôi dặn đi dặn lại kiểu tóc mà tôi muốn. Kiểu tango, tóc
dày lên, bồng bềnh như diễn viên điện ảnh. Anh gật đầu ra dấu đã hiểu. Mọi thứ
diễn ra êm đẹp. Người thợ quàng khăn lên cổ bạn, một chiếc khăn màu cháo lòng,
cũ rích nhưng khá sạch, đẫm mùi nước hoa và mùi brillantine bạn hít thơm lừng,
lim dim nhắm mắt, lắng nghe tiếng tông đơ loạch xoạch. Khi xong việc, nhìn vào
gương, bạn thất kinh sững sờ. Cái gì kỳ vậy? Im lặng. Tôi nhìn đi nhìn lại, hai
sợi tóc mai tôi nuôi cả tháng nay biến mất. Trời ơi, làm thế nào? Người thợ
lúng túng xin lỗi, nhưng quá trễ. Bạn ra về sau khi tức giận đứng chờ lấy lại
tiền thối, lấy hết can đảm nói với người thợ về nỗi khổ đau của bạn. Nghẹn họng.
Bạn thề sẽ không trở lại.
Nhưng rồi bạn trở lại. Vì tuổi trẻ
chóng quên. Chẳng cần học bài học tha thứ bạn cũng quên béng. Vả lại tóc bạn
ngày ấy ra nhanh lắm, mướt như cỏ dại. Bạn thích nghe tiếng mài dao, rờn rợn, lạnh,
kích thích. Bạn thích nghe tiếng tông đơ rào rào. Nếu hôm ấy không quá bận, người
thợ còn chiêu đãi bạn một chầu ngoáy tai. Cái ngoáy tai nhỏ xíu bằng đồng vàng,
có lẽ là thứ kim loại sáng nhất mà bạn được nhìn thấy ở làng quê, cảm giác đưa
vào tai bạn nhột nhột mới đầu đau nhói, nhưng nó hết ngay, chuyển sang cảm giác
kích thích rồi buông lỏng, dịu dàng, êm ái như một lời an ủi, hay lời xin lỗi.
Thời bé, chẳng có ai xin lỗi bạn cả. Khi người lớn làm sai, họ chỉ cười. Nhưng
cái ấy không hề gì, vì trong khi ngồi chờ đến lượt mình bạn có thú vui riêng.
Quán hớt tóc có chồng sách báo để ở một góc cho khách giải trí, nhật trình Hòa
bình, Độc lập, Công luận, với tiểu thuyết feuilletons của Kim Dung, Nam Kim Thạch,
Mai Thảo, Nhã Ca, Duyên Anh, những tờ tạp chí Phổ thông, Thời nay, Tập san thứ
tư, đã mòn gáy. Bạn say mê những trận hải chiến được mô tả trong tập Đa hiệu của
Võ bị Đà lạt, lá thư Paris của Minh Đức Hoài Trinh, lá thư của Hoàng Xuân Hãn,
bạn thích Mình ơi của Nguyễn Vỹ dù gặp con gái đỏ mặt. Những sách báo ấy nuôi
dưỡng tâm hồn bạn, làm cho sự chờ đợi ngắn lại, trong khi ngoài trời mưa lâm
thâm. Vì vậy mà nỗi bực mình đối với sự độc tài ỷ y của người thợ cắt tóc kia
chẳng thấm vào đâu. Cứ thế ngày này qua tháng khác bạn lớn lên dưới lưỡi dao cạo
của hắn ta, chiếc tông đơ ngày càng mòn, hòn đá mài dao xanh đã dẹt lại, chỉ có
cái ngoáy tai khi nào cũng sáng chói một cách muộn phiền.
Thời bây giờ có lẽ không còn những
người thợ hớt tóc như vậy nữa. Thời bây giờ, ở các thành phố lớn như Sài Gòn,
Huế, Hà Nội, London, New York, Hán thành, những nơi tôi có đôi lần bước vào
quán hớt tóc, tôi thấy họ mau lẹ hơn, sạch hơn, cử chỉ lịch sự hơn, nhưng không
khí làm việc lặng lẽ. Tôi nhớ người thợ hớt tóc năm xưa của tôi nói chuyện
không ngớt miệng, đôi khi khạc nhổ vào góc nhà, thỉnh thoảng hò hét, kể những
chuyện nơi xó bếp hay thiên hạ đại loạn, làm cho bạn vui lên trong một ngày u
ám, hay làm bạn hốt hoảng vì một tin mới cóng từ thủ đô, hay làm bạn thề rằng sẽ
không bao giờ trở lại. Nếu không gặp được một người thợ hớt tóc như thế trong đời,
trong một cái quán thân mật, thì công cuộc hớt tóc của bạn chưa phải là thứ
đáng ao ước lắm. Sau khi kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình, người Việt
thôi giết nhau trên chiến trường, họ trở về làng cũ nhưng sống buồn hơn, nhạt
nhẽo hơn, e dè hơn, khi báo chí đúng nghĩa đã chết, hay trở nên nghiêm nghị một
cách chán chường, hay chán chường một cách nghiêm nghị, khách đi hớt tóc chẳng
còn chuyện gì vui ngoài chuyện bóng đá.
Thôi thì cũng tạm an ủi.
Rồi đến một ngày, bạn để ý cái khăn
quàng màu cháo lòng đã ngả sang màu xám đặc quánh, như màu cuộc chiến tranh lan
rộng, cái dây da để mài dao ngày một cũ, rách, người tới quán ngày một thưa, vì
những thanh niên bỏ làng ra đi ngày càng nhiều, lớp đi quân dịch, bọn trốn
lính, kẻ nhảy núi. Thời ấy những quán hớt tóc chỉ dành cho đàn ông, phụ nữ tự cắt
lấy ở nhà, người sang hơn thì tới thẩm mỹ viện, mọc khắp nơi, với những cái máy
sấy tóc đội đầu như phi công để uốn phi dê. Quán hớt tóc là của đàn ông, từ bé để
chỏm đến già đi guốc mộc lẹp kẹp. Bây giờ cũng vậy, trên thế giới nơi nào cũng
vậy, nhưng những quán barbers hình như ngày một ít đi. Tôi vẫn yêu thích chúng,
vì có không khí riêng, người thợ chuyên nghiệp cố vấn về các kiểu tóc của nam
giới, cắt làm sao để đội mũ lên đầu không vướng, cắt ngắn hay dài tùy khuôn mặt,
cái đầu, tùy công việc và sở thích. Những câu chuyện trong các quán ấy cũng có
phong vị riêng của bọn lang thang, tôi thích làm quen với những người thợ hớt
tóc như vậy, cũng như người thợ sửa xe của tôi, cũng như người thợ nướng bánh
mì của tôi, người đầu bếp của tôi. Trong quán ấy tôi còn được đọc Túp lều của
chú Tom, Thiếu lâm trường hận, Kỳ nữ gò Ôn khâu của Đinh Hùng, Chắp tay nguyện
cầu cho bồ câu trắng hiện của Nhất Hạnh. Chúng ta cầu nguyện hoài, cả dân tộc
này cầu nguyện, những người dân miền Nam miền Bắc có con đi lính, suốt ngày cầu
nguyện, nơi công khai nơi lén lút, nhưng có người mẹ nào mà không nhớ con, có
cái chết nào không đau xót, cầu nguyện hoài mà thanh niên vẫn lũ lượt vào lính,
quan tài vẫn lần lượt đóng đinh gởi về. Trong cái quán bốn bề vách đất, gió thổi
lồng lộng, nép vào vệ đường dưới tiếng kẽo kẹt của bụi tre la ngà đêm mưa có
ma, có một đứa con trai ngày càng lớn ngày càng biết lo âu buồn bã.
Càng lo buồn tôi càng đọc, việc đọc
sách làm tôi bớt buồn, bớt tuyệt vọng, dưới những đám mây mùa thu ẩm thấp, mặt
đất như khói, một hôm ngồi chờ trong quán tôi nghe được giọng nói. Giọng nói ấy
kể tôi nghe về nỗi cô đơn, sự mất mát của chiến tranh, về hòa bình yêu dấu, về
những thế giới khác, sự nhầm lẫn của các lý tưởng bạo động. Tôi hình dung những
thế giới rộng lớn hơn trong sách báo, tiểu thuyết, tôi tìm thấy những người anh
hùng hiệp lữ của riêng mình. Có những ngôi nhà làm nên từ mùa xuân có những cái
quán làm nên từ mùa thu, và trong đời bạn người nào cũng có cái quán để dừng
chân, để ngả đầu ra sau mặt ghế, để nhắm mắt lại, để duỗi chân ra. Ở đó có một
tấm gương để bạn nhìn vào thấy khuôn mặt mình, tơ hồng măng non mơn mởn hay lấm
lem dầu mỡ. Trong những ngày chiến tranh lan rộng ấy, vẫn có những khoảnh khắc
cảm động, trên bức vách quét vôi trắng chiếu rọi một ánh sáng lạ lùng qua khe,
vàng vọt lấm tấm bụi. Con trai hay chạy nhảy, nên khi có dịp ngồi im, bao giờ
tôi cũng ngủ gật, và khi tỉnh dậy đôi khi tôi nhìn thấy một điều gì kỳ lạ, một
phát hiện bất ngờ. Một lần tôi mở mắt, nhìn qua cửa thấy một người từ xa đi lại
trên đường quốc lộ, chiếc nón ngửng cao, bày khuôn mặt diễm lệ, buồn rầu, đi
thong thả trên đường về phía chúng tôi. Tôi nhìn thật lâu mới biết rằng không
phải tôi nhìn qua cửa sổ mà nhìn vào tấm gương, như thể không phải một người
đang đi ngược đường về phía mình mà cô đi ngược chiều thời gian, để trở lại với
cái quán cũ, đi loáng thoáng dưới hàng dây leo vàng hoa mướp. Hai hôm sau, quán
đóng cửa, người thợ không trở lại, anh bị gọi nhập ngũ, những câu hát ngày xưa
của anh về đời lính nay vận vào người, rồi đây anh sẽ hát chúng trên những nẻo
đường lạ, khi chiều tàn.
Một lần đạp xe ngang quán cửa đã đóng
im ỉm, không có người thay. Tôi đứng lại thật lâu bên kia đường nhìn cái quán,
tôi đứng gần thửa ruộng không người gặt, đứng dưới đám ráng mây chiều đỏ quạch,
nghĩ đến một sân ga đổ nát nơi đó có người lính mang ba lô vừa đi vừa
hát: trời đêm dần tàn tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn,
nghĩ đến những trang sách cũ mà tôi đã đọc, những trận hải chiến, những anh
hùng kỳ nữ, nhưng không kịp nghĩ đến mái tóc của mình ngày càng dài ra, tóc
mai, râu mép bắt đầu lún phún, chúng mọc lên như nỗi buồn không ngay hàng thẳng
lối. Lòng thương nhớ ấy là sự không hài lòng, là hiện tại không bền vững, là tiếng
gọi của thế giới bị tổn thương, ký ức bị xâm phạm, là nỗi ao ước sâu xa như hạt
giống trong đất, chờ mọc trở lại. Tôi cần tìm một người thợ hớt tóc khác, nhưng
không có người nào có thể thay thế được cho người thợ làng quê ấy nữa, vừa cắt
tóc vừa hát vừa nhổ nước bọt vừa kể chuyện râm ran, cái quán ấy, bóng người đi
vào gương ấy khi tôi còn bé, tóc tai hãy còn là thứ công việc vui vẻ khi ấy bạn
tha hồ cắt trụi hay để dài, nuôi tóc mai, ép hay để phồng lên, vắt ngược tóc ra
sau hay chải cho dợn sóng, ngồi nghe anh kể chuyện thiên hạ đại loạn nhưng
không phải chuyện của mình, bây giờ.
Nguyễn Đức Tùng
Nguồn: http://vanviet.info/van/qun-hot-tc/
HỚT TÓC VỈA HÈ
Hôm qua đi hớt
tóc ở tiệm quen, không thấy anh thợ dùng tông đơ bóp tay như trước. Mọi lần anh
vẫn dùng cả hai. Tông đơ máy dùng để hớt tóc dài, tông đơ bóp tay dùng để rà lại
những chỗ cần tỉ mỉ. Tôi hỏi vì sao – Giờ chẳng ai xài tông đơ cũ nữa chú,
xài máy luôn cho tiện và nhanh. Tôi hớt ở tiệm này đã 10 năm, từ giá 25.000, rồi
30, 35…và bây giờ 40.000 đồng.
Vũ Thế
Thành
Trước đó tôi hớt tóc ở tiệm quanh khu
Phú Nhuận. Tôi đi ngang, tạt vào. Khi đó buổi trưa, ông hớt tóc đang ăn cơm
trưa, vội bỏ ngang để hành nghề. Tôi xua tay, anh ăn xong đi rồi cắt, tôi không
gấp. Ông thợ có lẽ hơn tuổi vài tuổi, ông chỉ dùng tông đơ bóp tay. Tôi hỏi,
sao không dùng tông đơ máy. Ông đáp, tôi dùng không quen. Động tác của ông tỉ mỉ,
chăm chút, nhưng dường như không được khéo tay lắm. Tôi không quan tâm nhiều đến
chuyện tóc đẹp, cái bản mặt mình đã thế, thì tóc đẹp hay xấu cũng vậy, cắt ngắn
để cho khỏi vướng víu khó chịu. Vừa hớt tóc, chúng tôi vừa chuyện vãn. Ông là
lính chế độ Sài Gòn, di chuyển đủ nơi. Sau 75, làm đủ nghề để mưu sinh: đạp
xích lô, sửa xe, vá xe còn bây giờ là hớt tóc. Con cái đi làm cả rồi, mỗi đứa mỗi
nơi. Vợ chồng thằng út ở chung nhưng cũng đi làm cả ngày. Tôi hỏi, quán có đông
khách không? – Không, ông à. Tụi trẻ không thích. Ban nãy thấy ông vào tôi vui
lắm. Giá 20.000 đồng. Tôi đến tiệm ông vài lần. Lần sau cùng đi ngang định tạt
vào hớt tóc, nhưng cửa tiệm đóng. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, trong
lòng thấy lỡ cỡ như vừa mất thứ gì.
Tôi chưa bao giờ đi hớt tóc thanh nữ.
Thật ra chỉ có 1 lần duy nhất. Tôi vào tiệm hớt tóc bình dân, bày biện loàng
xoàng. Quán chỉ có 1 thợ, chính là cô thợ hớt tóc đó. Lỡ vào rồi, bước ra hơi kỳ
kỳ… Đành miễn cưỡng cúi đầu trước phụ nữ, đế cắt tóc và cạo…râu. Cũng thấy ngượng!
Cô hớt có vẻ nhanh nhẹn, khéo tay, nhưng lần sau tôi đi ngang tiệm, liếc ngang
và đi ngang luôn.
Hồi nhỏ tôi thường hớt tóc vỉa hè, một
cái gương to treo ở cây có bóng mát, hay vách tường nào đó, với đồ nghề để
trong thùng gỗ nhỏ, buộc vào yên sau xe đạp. Chỉ cần thế là có thể hành nghề hớt
tóc cả ngày. Sau này tôi ít thấy hớt tóc lưu động hay vỉa hè. Cách nay hơn 20
năm, đi Nha Trang công tác, buổi trưa lửng thửng ra khỏi khách sạn định làm ly
café cho tỉnh táo trước khi đi gặp đối tác. Chợt thấy “tiệm” hớt tóc ven đường,
tạt vào luôn dù tóc chưa dài. Tên tài xế đi cùng, cũng đi kiêm café, bắt gặp cảnh
đó, nên chụp luôn.
Mới đây tôi đi café ở đ. Ngô Thời Nhiệm
(có lẽ thế), thấy bên kia đường có “tiệm” hớt tóc vỉa hè, sát gốc gây, thế là
băng qua đường vào luôn. Có lẽ là năm 2020, khi có cảnh báo đeo khẩu trang để
phòng lây nhiễm. Người bạn đi cùng nhanh tay chụp luôn.
Tôi thích những gì cũ kỹ của một thời.
Có lẽ vì thế mà cái đầu tôi cũ kỹ, lạc hậu, không bắt kịp thời đại.
Vũ Thế Thành
304Đen – Llttm -sgtc

No comments:
Post a Comment