Thursday, October 30, 2025

Phố Xưa Về Lại - Thuyên Huy

 Phố Xưa Về Lại




Tây Đến Rồi Tây Lại Đi (1859 -1946) - Vương Hồng Sễn

 

Tây Đến Rồi Tây Lại Đi … (1859 – 1946)

Kể về người Pháp sang đất Sài Gòn, trong số những người tiền phong phất cờ, phần nhiều lắm người hữu học, thông thái:

Aubaret, làu thông chữ Hán, từng cầm đầu phái đoàn phiên dịch trợ lực sứ đoàn Phan Thanh Giản sang triều Napoléon III thương thuyết việc chuộc ba tỉnh miền Đông xứ Nam Kỳ. Có soạn một bộ văn phạm Việt Nam (grammaire) và dịch một phần bộ Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức ra Pháp văn.

Luro dạy luật học và phong tục học tại Trường đào tạo các Tham Biện, tục gọi Collège des Stagiaires (trường ở chỗ học đường Taberd hiện nay), đồng một thời cùng các giáo sư Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của.

Philastre dịch bộ Hoàng Việt Luật Lệ (Code de GiaLong).

Doudard de Lagrée, Francis Garnier, là nhà thám hiểm, kẻ đi khảo sát sự lưu thông hai sông Mékong, Nhĩ Hà (sông Hồng) người tìm ra cảnh Đế Thiên, Đế Thích (Angkor).

Sylvestre khảo về cổ tiền và luật bản xứ.

Nếu nhắc lại đây, tưởng không sao kể hết. Ngoại trừ phần tử xấu, thực dân hạng nặng, qua đây vơ vét bóc lột, và tàn bạo, thì giới mô phạm, giới y tế, – phải nhìn nhận – đã để lại nhiều kỷ niệm tố vì làm tròn nhiệm vụ khai hoá trí óc, nâng cao sức khỏe người Việt không ít.

Cuối thế kỷ XIX, bắt đầu thế kỷ XX, Nội các Pháp ngán tài xuất chúng và tánh cứng cỏi của Paul Doumer nên tìm cách không cho ông ở Paris và “trấn” ông sang làm Toàn Quyền Đông Dương (1897). Doumer có tánh độc tài tự quyết nhưng rất thanh liêm, ông muốn mở mang xứ Bắc Kỳ để nhử nước Trung Hoa, không thiết khuếch trương thổ sản đất Nam Kỳ. Trái lại, Paul Blanchy là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ lại muốn mở mang miền Nam hơn xứ Bắc. Do đó hai nhân vật này không thuận với nhau, nhứt là về cuộc xuất phát chi tiêu công nho thuộc địa (budget colonial). Paul Blanchy mất tháng chạp 1901. Paul Doumer mùa xuân 1902, sang Pháp rồi ở luôn bên ấy không trở qua Đông Dương nữa. Blanchy và Doumer đã ghi đậm dấu chơn tại đây, mỗi người mỗi cách… Gì thì gì, hai người đã mở đầu một nghệ thuật mới mẻ trong xứ: nghề viết báo, trước bành trướng tại Sài Gòn, sau mới tung hoành đất Thăng Long.




Paul Doumer

Tờ L’Opinion” (Lucien Héloury chủ trương), tờ “Le Courrier Saigonais “(Paul Blanchy làm chủ), tờ “La France d’Aise” của Héloury giao lại cho bà Luoise Alcan bỉnh bút thì cực lực bên vực Paul Blanchy.

Riêng tờ “Le Mékong” do hai anh em Le Riche biên soạn thì mật lãnh phụ cấp và triệt để ủng hộ Paul Doumer.

Thời này là thời ký giả Pháp có dịp ẩu đả ngay giữa quán rượu hoặc so gươm, bắn súng lục trong các cuộc đánh gươm rửa hận “duel”.

Ký giả Julien Delpit nhờ Doumer làm mai, cưới vợ là ái nữ ông Lê Phát Thanh, triệu phú. Delpit lêu lổng xài hết sự nghiệp của vợ rồi đưa nhau lên Lào làm công chức.

De Lachevrotière xuất thân làm cho báo “L’Opinion” ngày nọ đến xin chủ cho lên lương, muốn xin được bốn trăm đồng bạc một tháng, Héloury không nhận lời, De Lachevrotière nhảy ra lập tờ “l’Imparatial” do Camille Aymard mua lại của Gallois Montbrun.

Ganesco, dòng dõi một nhà viết báo Pháp có tên tuổi, qua đây làm đầu phòng văn cho Thống Đốc Rodier, nghỉ ra viết báo, rồi nhảy trở vô quan trường, đổi xuống làm Tham biện Tỉnh trưởng trường Tân An. Để kéo dân Sài Gòn xuống đất Tầm Vu ăn chơi ngày chúa nhựt và cũng để giành mối Hội Đua Ngựa, lão tham biện “công tử bột” nầy bày ra cuộc thi chó bắt chuột gọi “ratadrome” (Lamagat, tr. 171).

Vào thời ấy, mỗi ly rượu khai vị (consommation) thứ mắc tiền nhứt như abinsthe, chỉ có hai cắc bạc (0 đ 20) một ly cối.

Khởi đầu, dùng đèn dầu lửa (dầu hoả) đã là sang, vì trước kia ta thắp đèn dầu phộng, đèn mỡ cá. Dân chúng muốn đi đêm phải xách đèn lồng, đèn tắt thì lính kêu phạt tội vi cảnh. Các nhà số, nhà điếm, thì có đèn đỏ, đèn xanh. Sau nầy xài đèn khí đá (carbure). Tết đến, lấy ống chì bắt bông mai, cắm lộc bình, đốt lên, mỗi cái hoa là một đóm đèn sáng rực, con nít và dân quê ngó không nháy mắt. Rồi đến thời kỳ xài đèn ét xăng có man chon sáng xanh, chiều chiều có anh phu dạp xe chạy thắp đèn ngoài đường, danh gọi “le lampiste”. Rồi bắt qua đèn điện có xài than, rốt lại mới có đèn ngày nay, điện hay néon…




đèn khí đá

Nhà quan viên thì dùng quạt làm bằng vải bố kaki căng trong khung treo trên trần nhà, có dây rỏ rẻ và sắm chú “bồi” con ngồi kéo quạt (panca, panka, punka).

Nay xin nói sơ qua về cuộc đời an nhàn của những năm về trước trong giới Pháp kiều.

Đầu thế kỷ XX, ra khỏi Sài Gòn hai mươi cây số ngàn (20km) đã là xa xôi lắm. Tha hồ săn bắn; heo rừng, nai, cà tong… Xa vô chút nữa thì trâu rừng, con min, cọp, voi không thiếu gì. Hoàng tử Henri d’Orléans dòng dõi Vua Henri IV, Thái Tử xứ Đan Mạch Waldemar và công tước Duc de Montpensier đua nhau thường năm dứt mùa mưa lối tháng mười ta là có mặt tại Sài Gòn, lấy sự săn bắn thú dữ làm món tiêu khiển phong lưu. Công tước Duc de Montpensier xài tiền như nước, mua nhà hàng Continental tặng cho cô nhơn tình là Bá tước Comtesse de B…

Sài Gòn muốn đi Nam Vang phải mất trọn một tuần lễ chớ chẳng chơi, vì mỗi tuần chỉ có ba chuyến tàu khứ và hồi. Nếu phải kể ở lại trên đó bốn mươi tám giờ chờ tàu, toi mất bảy ngày dễ quá, nhưng trên tàu, thú vui trời nước, đọc sách đánh bài tiêu khiển, duy ban đêm chưa có đèn điện, còn dùng đèn cầy và đèn dầu hoả, thêm nạn tàu ghé Cù lao Giêng thì đúng giờ ăn cơm tối, bọ xích và muỗi đen bay vãi vào mặt vào họng và thức ăn.

Hãng tàu chạy sông “Méssageries Fluviales” sáng lập năm 1883 -1884. Sau đổi là “Compagnie Saigonaise de navigation”, đầu tiên do Jules Rueff làm chủ sáng tạo. Rueff quen thân với Vua Hoàng Lân (Norodom). Rueff bán đồng hồ reo, đồng hồ chuông, đồng hồ bỏ túi, cho Norodom mà dư sức làm giàu. Rueff mướn bọn thuyền chủ (trong Nam gọi Cò Tàu), tuy người quốc tịch Lang Sa nhưng trả lương chỉ có bốn chục đồng bạc mỗi tháng, tính mỗi tuần mười đồng. Thế mà bọn nầy đều làm giàu ngang xương, đủ tiền nuôi em út, còn nuôi thêm ngựa đua, vì tàu chạy đường Sài Gòn qua Bangkok, chuyến đi thì chở “lậu” súng lục, chuyến về chở “lậu” thuốc phiện, không mau giàu sao phải.

Ông Henri kể lại chuyện một cò tàu chở thuốc phiện lậu, khi tàu đến gần thương khẩu Sài Gòn thì sai neo thùng thuốc phiện buộc chùm với chiếc mỏ neo chìm lỉm xuống nước chờ lính đoan xét tàu xong rồi trục vớt lên. Có một lần nọ, lính đoan biết kế, đón tàu từ hòn Côn Sơn, xuống nằm ỳ dưới tàu chờ về địa phận Sài Gòn sẽ ra tay lục xét. Vỏ quýt dày, có móng tay nhọn. Dọc đường, viên cò tàu bơm ngọt, phục rượu Tây đoan say vùi, chờ khi sang tất cả số đồ lậu thuế qua thuyền nhỏ phi tang đâu đó xong xuôi, khi ấy Tây đoan tỉnh giấc, chỉ còn nước chạy giấy phúc trình: “trên tàu, xét kỹ càng không một món đồ nào lậu thuế”!

Năm 1905 đã có vấn đề “nước uống” đem ra bàn cãi tại hội đồng thành phố. Công ty Nhà Đèn xướng ra thuyết ít tốn kém cho ngân quỹ là đào thêm giếng lấy nước ngọt ngay tại chỗ. Hãng Balliste có thế lực lớn lại đề nghị dẫn nước thác Trị An về và như thế đô thành sẽ có dư điện lực do sức mạnh của nước làm ra, vĩnh viễn không lo khan nước khan hơi điện. Năm 1904, Xã Tây Cuniac sang Pháp định vay tiền mẫu quốc mười hai mười ba triệu quan gì đó để thi hành chương trình Balliste. Nhưng Cuniac gặp trở ngại; khi trở về Sài Gòn thì xin từ chức xã trưởng thành phố, và vấn đề “nước ăn nước uống” cho đến ngày nay vẫn chưa dứt khoát.

Vấn đề “đổ bác đổ tường” cũng được chú ý đến. Tuy có lịnh cấm cờ bạc, nhưng cấm lấy chừng, ngày tư ngày tết, các chú hốt me tận ngoài đường cái, những thương gia đầu tắt mặt tối quanh năm cũng nghỉ xả hơi, đóng cửa, cầm giấy đỏ có đề bốn chữ “cung hạ tân xuân”, vừa đi thăm bè bạn ba bữa đầu năm, vừa ghé sòng bài thử thời vận. Nhà hàng “Hôtel de France” đường Catinat, trong ba ngày Tết, Hoa Kiều mướn chứa me đến hai chục ngàn đồng một ngày. Dòm vào sòng “đuôi sam” nhiều không thua khăn đóng và khăn quấn đầu rìu. (Lamagat, trương 135).

Năm 1906 Jean Duclos chở ngựa lớn con, giống A Rập từ Hà Nội vào cáp độ Trường Đua Sài Gòn, báo hại nhiều nhà thua phá sản. Qua năm 1912, de Monpezat cũng làm mửng ấy và chủ ngựa Hà Nội vét túi bọn trong Nam.

Câu Lạc Bộ thể thao “Cerclie Sportf” cũng ra đời lối năm 1912.

Lão Mézin, với hai bàn tay trắng, qua đây khai phá ruộng tỉnh Cần Thơ làm nên đồn điền “Domaine de l’Ouest”.

Lão Gressiercòn giỏi hơn nữa, cỡi trâu chạy đua với ngựa, và khai hoang mở rộng vùng Phú Lộc (Sốc Trăng).

Hai người sống ở ruộng nhiều hơn ở đất Sài Gòn. Gressier cày sâu cuốc bẫm củi lục làm ăn ròng rã ở đây bốn chục năm dài không về Pháp quốc chuyến nào.

Lão Vidal, xin thôi làm sĩ quan thuỷ quân, ở thiệt thọ tại Sài Gòn cưới vợ Việt Nam, tập ăn trầu nhai bỏm bẻm, được tôn làm đại hương cả làng Phú Nhuận. Khi mãn phần, di ngôn dạy chôn cất theo đạo Phật, có thầy chùa tụng kinh siêu độ, đám táng dùng nhà vàng và đạo tỳ đòn rồng, đòn bông khiêng vai (vì thưở ấy chưa có xe tang ô tô) và thêm có hò đưa linh ấm đám. Tôi nhớ rõ việc nầy vì năm ấy tôi còn làm việc tại trường máy đường Đỗ Hữu Vị, chủ trường là quan năm Rosel sai tôi dẫn đường viếng tang Vidal, đến nơi thấy nhà vàng và thầy chùa gõ mõ, ông cật vấn nhiều lần vì tưởng đã lầm nhà.

Lão Fernand Lafonmua đất châu thành và lập nghiệp tại góc đường Lê Văn Duyệt và Hồ Xuân Hương (Verdun Colombier) gần chùa Xá Lợi và trường Áo Tím, nay là Nữ Học đường Gia Long; đất ấy Lafon mua với giá năm cắc bạc (0 đ 50) mỗi thước vuông.

Tên Chà Và bán sữa tươi có một bầy bò thả ăn rong trên đất của đô thành. Chánh phủ ép phải mua đất trên Tân Sơn Nhứt để lấy cỏ cho bò ăn, Chà ta khóc ròng và chạy tiền mua; ngày nay Chà cười vì đất “chó ỉa” một thước vuông một, hai cắc bạc, nay đắt hơn vàng khối.

Tiền bạc trong xứ, khi cần dùng tạm bợ thì phải vay hỏi nơi Chà Chetty ở xóm Ohier (nay vẫn còn chỗ cũ) tuy cho vay cắt cổ mà không bạc Chà lấy đâu có vốn làm ăn? Mỗi năm rằm tháng Giêng, Chà bày cộ đèn, đưa thần Civa (tượng đúc bằng bạc ròng) dạo chơi đường phố, mua bán tấp nập suốt đêm.

Các quan Lang Sa và nhà giàu thân thế sắm xe bicyclette, lúc ấy đã biết máy móc là giống gì, thấy xe không dùng ngựa bò mà chạy ngờ ngờ, đã đặt tên nó là “cái xe máy”. Trước còn bánh đặc, phần đường xá gồ ghề, mê sức chạy mau mà quên đau… sau có bánh bộng, nhưng xe nổ vỏ thì có lấy tay mà bụm! Xe máy dầu (motocyclette) là một xa xí phẩm mới có sau nầy.

Khách phong lưu và người có tiền thì đi xe “kiếng”, tức xe đóng bít bùng có cánh cửa gắn kính cho có ánh sáng, nên gọi như thế. Người Pháp gọi xe ấy “voiture malabare” vì người cầm cương phần đông là người Mã Lai. Rồi sau có xe trái bí, hình dáng thanh hơn xe kiếng. Xe trái bí, nhà Dưỡng Lão Thị Nghè mấy năm về trước, còn thấy dùng để đưa các dì, bà phước đi chợ mua đồ ăn. Nhà giàu nữa thì dùng xe mây một ngựa (thùng đan bằng mây) hoặc xe song mã có xà ích (sais) Chà Và cầm cương.

Xe tự động (ô tô) sơ khởi là xe hiệu Peugeot, Panhard, Delage, muốn chạy phải đốt cho máy nó nóng!!! Mui vải bố có dây da kéo chằng chịt ra trước ra sau, cửa xe thì không có… Những người có xe ô tô buổi đầu toàn những cự phú và các Lang Sa sang trọng, trong số có ông Lê Phát An là một. Năm 1923, xe Chánh phủ chỉ có độ một trăm chiếc ghi, số từ C-1 đến C-100, chiếc Delage C.100 của Thống Đốc Nam Kỳ là “chiến” nhứt hạng.

Câu hát, câu hò thưở trước

Tiện đây, tưởng nên ghi chép một mớ câu hát câu hò dính líu chút ít đến nhơn vật và phong cảnh Sài Gòn xưa:

 Sài Gòn mũi đỏ,
” Gia Định xúp lê,
” Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
” Thuyền anh ra Cửa như rồng lên mây “

(Đời trước, ghe thuyền Sài Gòn đều sơn mũi đỏ cho dễ phân biệt với ghe thuyền Lục Tỉnh. Dường như phong tục sơn mũi thuyền và khắc tên họ, quê quán chủ thuyền đã có từ thời ông Nguyễn Cư Trinh vào Nam, cốt để dễ bắt ghe gian hoặc thuyền của bọn cướp (xem Sãi Vãi do Lê Ngọc Trụ và Phạm Văn Luật sao lục và chú thích).

Gia Định xúp lê: Ghe anh lui đến Gia Định, như cởi mở, nếu là tàu thì đã thổi còi vang dội. Hát câu nầy, anh cho gái hiểu một đi không về!

Mẹ đi Chợ Quán, Chợ Cầu,
“Mua cau Chợ Vải, mua trầu Chợ Dinh
“.

Hay là:

“… Mua vôi Chợ Quán, Chợ Cầu,
“Mua Cau Nam Phổ, mua trầu Chợ Dinh

(Câu hát vùng Huế, nhập Gia Định đời Tây Sơn)

Chị Hươu đi chợ Đồng Nai,
“Bước qua Bến Ngé, ngồi nhai thịt bò

(Câu hát đối bí hiểm, chưa có câu đáp lại. Trong câu có đủ: hươu, nai, nghé, bò).

Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé, ngồi nhai thịt bò

(Cặp nhơn tình nầy, một người gốc gác ở Huế, một người trong Nam).

Nhà Bè nước chảy phân hai,
“Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
“.

(Câu hát tuyên truyền cuộc di dân vào Nam. Xưa, một phú ông đã có công sáng lập nơi đây một nhà cứu tế và bán buôn, cất trên Bè, trên sàn, sau nhóm đông thành chợ, gọi Chợ Nhà Bè. Bấy lâu, tên ông là Thủ Huồng, nghe làm vậy nhưng không biết chữ viết ra sao, nay đọc Gia Định vịnh, thấy ông Trương Vĩnh Ký ghi là Võ Thủ Hoằng mới rõ).

“Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
“Nước sông trong sao lại chảy hoài?
“Thương người xứ lạ lạc loài tới đây
“.

(Câu hát gợi tình, lời trung thực thuộc loại chánh phong).

“Chợ Sài Gòn cẩn đá, Chợ Rạch Giá cẩn xi măng,
“Giã em ở lại vuông tròn, anh về xứ sở, không còn ra vô
“.

(Hát xong câu nầy, là cút biệt về Rạch Giá, ô hô!)

Cúc mọc bờ ao, kêu bằng cúc thuỷ,
“Chợ Sài Gòn xa, Chợ Mỹ cũng xa,
“Viết thơ thăm hết nội nhà,
“Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em!
 “

(Câu hát huê tình, điệu chánh phong).

Mười giờ tàu lại Bến Thành,
“Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xa
o”

(Mười giờ có một chuyến xe lửa từ Mỹ Tho lên, đỗ ga “Bến Thành” thì kéo còi…)

Anh đi ghe cá trảng lườn,
“Ở trên Gia Định, xuống vườn thăm em

(Ghe trảng lườn là loại thuyền trẹt, cạn lòng).

Xay lúa giã gạo Đồng Nai,
“Gạo thóc về ngài, tấm cám về tôi “.
“Trầu Sài Gòn xé ra nửa tá,
“Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi,
“Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
“Hay là anh quyết ở đời với em
?”

(Minh Tâm)

Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
“Nghe em có chốn, anh đàng quăng om (om trà Huế)
“Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
“Hành khách chẳng có, đá om quăng lò
 “

(Minh Tâm)

Xe mui chiều thả xanh quanh,
“Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi
 “.

(Thú phong lưu thưở trước, đến 1914 sấp sau mới có ô tô).

Kết luận

Sài Gòn là đất hưng vương, căn bổn phát tích Nguyễn Triều. Pháp chiếm năm 1859. Pháp bị lật năm 1945. Tiếp theo là cuộc trưởng thành, cách mạng, độc lập.

Lịch sử Sài Gòn có lắm đoạn vẻ vang:

Không có bàn tay người Việt tô điểm, không thịt xương người Việt làm nồng cốt, không máu huyết người Việt làm xi mon, chưa chắc Sài Gòn có bộ mặt mới xinh như ngày nay.

Đứng giữa các mối đường, sự giao thông thuận tiện;

Ngày nay có sân bay rộng lớn khang trang, Sài Gòn nối liền với hoàn cầu trong nháy mắt. Như một viên bảo ngọc, càng ngày càng quý, Sài Gòn hội đủ điều kiện để trở thành một đô thị tối tân.

Xuân Mậu Tuất (1958) – Xuân Canh Tý (1960)

Vương Hồng Sển

Trích: “Sài Gòn Năm Xưa”

Tống biệt Hành - Thâm Tâm

 Tống Biệt Hành



Ném Đá Nghìn Năm - Lê Vĩnh Húy

 

Ném đá nghìn năm

Người Tàu có món bánh bằng bột mì chiên dầu, hình dạng như hai cây xúc xích dính liền nhau, ăn bùi và giòn tan. Món này ngoài Bắc gọi “quẩy”, còn trong Nam kêu “dầu-chá-quẩy”.

Lê Vĩnh Húy

 

Dầu-chá-quẩy là phiên âm tiếng Quảng Đông của “Du tạc quỷ” 油炸鬼, nghĩa là con quỷ bị chiên dầu. Món bánh này không biết xuất hiện tự khi nào, nhưng nó được gắn sự tích bi thảm, tượng trưng cho vợ chồng Tần Cối bị hình phạt bỏ vạc dầu: ăn dầu-chá-quẩy là nhai xương vợ chồng kẻ gian phi, là yêu nước!

Trong dân gian lại lan truyền đủ thứ đơm đặt truyền kỳ, thậm chí qua tới đời Thanh, có tên thầy chùa còn dựng chuyện, nói là có con heo nọ là kiếp đầu thai chịu tội thứ 7 của gian thần Tần Cối. Thiệt là tình! Coi bộ tụi vô lương hợp tác cường quyền, điên đảo thị phi đời nào cũng có!

Không chỉ dùng bột chiên, heo nọc làm biểu tượng suông, người ta còn tạo dựng cả hình tượng cụ thể. Năm thứ 9 niên hiệu Chánh Đức đời Minh Vũ tôn (1513), viên Đô chỉ huy phủ Hàng Châu là Lý Long đã cho đúc tượng đồng năm hình nhân bán lõa quỳ trước mộ Nhạc Phi ở Tây Hồ. Năm tượng đó là Vương Tuấn, Vạn Sĩ, Trương Tuấn, Tần Cối cùng với vợ y Dương thị. Năm người này bị Hán sử quy tội ám hại toàn gia Nhạc Phi – vị danh tướng kiêm chiến thần của Trung Hoa.




Họ Lý kia quả làm được việc hay: Từ đó, đền thờ Nhạc Phi các nơi, từ Hàng Châu tới Giang Tây, Hà Nam, Giang Tô, Hồ Bắc… đều bắt chước dựng tội nhơn thiên cổ y theo. Toàn đại lục tính ra có tới 208 tượng Tần Cối trong tư thế mình trần quỳ gối, hai tay bị xích ra sau. Đặc biệt ở lăng Thái Hạo thuộc huyện Hoài Dương tỉnh Hà Nam, tới mùng 5 Tết, người ta lại tổ chức ngày hội lớn “đả Tần Cối”. Các tượng đồng trải hơn 500 năm nay bị đánh, bị vỗ không ngừng, tới nỗi đều bóng lưỡng. Dương thị, vợ Tần Cối, dù là phụ nữ cũng bị phanh trần thân trên hệt như “đồng đảng”, pho tượng bà ở lăng Thái Hạo có điểm độc đáo là đôi bầu ngực bị sờ soạng tới bóng lưỡng.

* * *

Tội trạng Hán gian bán nước, cũng như tội danh giết hại Nhạc Phi của Tần Cối, tới nay vẫn chưa có bằng chứng cụ thể; trong khi cái chết của Nhạc Phi là hệ quả tất yếu, do chính ông ta tự rước lấy.

Nhà Bắc Tống hủ bại, đang khi bộ tộc Nữ Chân quật khởi ở phương Bắc, giành lại lãnh thổ từ Cao Ly, tiêu diệt nước Liêu, lập nên Kim quốc, thì vua tôi Tống vẫn an nhàn hưởng lạc, xây dựng văn minh đạo đức lễ nghĩa. Tống Huy tôn đắm chìm trong sáng tác, trở thành họa sĩ tài danh lừng lẫy cổ kim. Tới chừng Kim quốc hưng binh chinh phạt thì ông vua tài tử sợ hãi tới mức nhường ngôi cho con là Khâm tôn.

Niên hiệu Tĩnh Khang 1127, hùng binh Đại Kim xâm nhập Biện Kinh, bắt hết vua cha vua con cùng số đông tôn thất đem đi. Sự biến “Tĩnh Khang” trở thành nỗi nhục lớn nhất của Trung Hoa suốt hơn 5.000 năm lập quốc.

Nam Tống chỉ còn lại nửa mảnh giang sơn, để đối phó tình thế đó, triều đình Tống Anh tôn chia làm hai phe, chủ chiến và chủ hòa. Phe chủ chiến do Nguyên soái Nhạc Phi cầm đầu, phe chủ hòa thì Tể tướng Tần Cối làm thủ lĩnh. Nhạc Phi tự cho mình hùng tài thao lược, được thiên hạ suy tôn là bậc trung quân ái quốc, ông chết bởi bốn chữ “trung quân ái quốc” đó. “Trung quân” của Phi là trung với hai vua trước, quyết đánh ra Bắc rước hai vua về. Ông không chịu hiểu, là nếu cha với anh của Anh tôn về, đương kim hoàng đế sẽ mất ngôi. Đã vậy còn tính mang quân vào sâu đất địch, mà địch đây là Đại Kim, vốn dân du mục thiện chiến. Làm vậy khác gì dắt dê vô miệng sói? Thu phục giang san đâu chưa thấy, nhưng chắc chắn đại quân phải mai một, rồi sinh linh đồ thán, mất nửa nước còn lại như chơi.

Những người viết sử hay khoa trương tinh thần yêu nước, nên hết lời ca ngợi hào khí vạn trượng kia, và đả kích phái chủ hòa. Ít người nhìn nhận công lao Tần Cối: Nhờ có ông ra sức chống chèo, nửa mảnh giang san còn lại của Đại Tống mới kéo dài thêm được trăm năm, cho tới khi đội quân hùng mạnh nhứt thế giới của Mông Cổ, nổi lên tiêu diệt cả Kim lẫn Tống.

* * *

Nhưng không phải thiên hạ ai nấy đều nhắm mắt tin theo sử sách do bọn cầm quyền tự ý phao vu, giải láo tùy thích. Năm 2011, Viện bảo tàng khu Giang Ninh thành phố Nam Kinh (quê Tần Cối), đã cho khánh thành bức tượng Tần Cối ngồi trên ghế, với đầy đủ phẩm phục áo mão triều đình, tay trái cầm cuộn giấy – hẳn đó là “Thư trần tình” nhiều người vẫn nhắc. Trước đó nữa, năm 2005, tại một điểm trưng bày ở Thượng Hải, nhà điêu khắc Kim Phong cho ra mắt tượng hai vợ chồng Tần Cối thong dong đứng thẳng. Nhưng những cố gắng giúp đỡ cho hình tượng Tần Cối chịu tội này, lại khiến quần chúng nhơn dân phẫn nộ. Tại vì người ta luôn cần có tội đồ, để nguyền rủa ngàn năm cho sướng miệng!

“Ném đá Tần Cối” là nhu cầu thiết thực của số đông man rợ, nó chính là cái van mà nhà cầm quyền dành để nhân dân trút xả bất mãn.

Lạy Tần tể tướng! Lạy Dương phu nhân! Chừng nào tượng đồng hai người giũ bỏ hết xích xiềng, đứng thẳng lưng bước ra khỏi miếu Nhạc vương, thì trung hồn kia của Nhạc Phi mới yên dạ, và dân tộc Trung Hoa mới mong sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

* * *

Cho tới nay, về tội phản quốc của Tần Cối, giới sử học vẫn tranh cãi không hồi kết. Vì có nhiều bằng chứng cho thấy Cối chỉ là kẻ chịu tội thay cho Tống Cao tôn. Nhứt là câu nói của ông vua nầy khi hay tin Tần Cối không qua nổi bạo bịnh, đã trút hơi cuối cùng: “Từ nay, trẫm đã không còn chịu nỗi lo bị nhét dao dưới đế giày”.

Và ít ai biết, dòng dõi Tần Cối vẫn sản sinh trung liệt. Tiêu biểu là Tần Cự, cháu ba đời của Tần tể tướng. Tống sử chép: Cự đảm nhiệm chức Thông phán Kỳ châu (nay thuộc Hồ Bắc). Năm 1221, quân Kim tiến đánh, bao vây Kỳ Châu. Tần Cự quyết chiến không hàng. Chừng thành bị chiếm, Cự vẫn đứng đầu tàn quân, xông ra giết giặc. Cuối cùng nhìn quanh chỉ còn lại một mình, Cự mới lui về nhà, châm lửa tự phần. Cùng lúc đó, hai con của Cự cũng chiến tử sa trường, thành ra cả nhà đều tuẫn quốc…

Lê Vĩnh Húy

304Đen – Llttm - sgtc

 

Để Lòng - Ngọc Giao

Để Lòng




Người thanh niên ích kỷ ấy không còn ngờ gì nữa. Chàng đã đành lòng phạm cái tội lỗi đó rồi. Chàng thấy mình càng ngày càng đi xa tình ruột thịt, xa quá, để mà nhắm mắt ngã vào cái hố của tình yêu. Chàng muốn gào lên, muốn thét lên: “Thượng đế cứu lấy tôi! Chúa rửa tội lỗi cho tôi!”. Tiếng gọi cứu cấp bách chưa có hiệu lực gì thì chàng vẫn cứ rảo chân đi mãi về miệng hố.

Trên bàn giấy lúc đó, một con kiến đang bò lên lọ mực. Nó đã đứng trên miệng lọ, sắp đưa đầu xuống. Cái lọ mực sâu thăm thẳm, chao ôi! Nó mà nhào vô đó thì biết bao giờ ngoi được mình lên. Chàng vội vơ cây bút gạt con kiến ấy rớt xuống mặt bàn; chàng thở một cái thật dài, tựa hồ vừa cứu được ai, hay tự cứu được mình ra khỏi một tại nạn gì nguy hiểm.

 

oOo

-Em bịt mắt anh và đố anh đoán xem em mặc áo màu gì đấy. Nói đi, không cần nghĩ mới tài!

-Áo màu rêu.

-Ai bảo! Màu hoàng yến. Thế đố anh, em đi đâu về nào?

-Đến nhà chị Thông thu họ cho me chứ gì.

-Ai bảo! Em đến nhà con Yến học đàn. Nhưng em lại tức mình về ngay, vì cái thằng anh con Yến ấy, nó cứ lấm lét nhìn em.

Mỹ, người thanh niên vừa chơi trò “hú tim” cùng cô em gái, lúc này, thốt nhiên ngồi thẳng mình lên, gỡ ra khỏi mắt hai bàn tay trắng nõn có những chiếc móng nhuộm màu hoa lựu, rồi chàng cười nhạt, đấm mạnh xuống tấm kính đặt trên bàn.

-Anh làm trò gì thế? Có lẽ em đến phải bảo me tống anh vào nhà thương điên cho em khỏi sợ. Anh chỉ được cái dọa trẻ con thôi.

-Mai!

Nhưng Mai đã như con chim khuyên, nhảy tót ra khỏi cửa phòng.

Mỹ đưa hai tay lên ôm lấy cái đầu tóc rối. Chàng nhìn trừng trừng vào tấm ảnh có hình chàng với em gái: Mai nghiêng dù che nắng, ngồi trên một cành si, tay ôm bó nhãn. Ảnh đó chụp trong một cuộc đi chơi ở vùng ngoại ô, khá xa Hà Nội. Cuộc đi chơi phiếm ấy thường như các cuộc đi chơi phiếm khác, song còn có một kỷ niệm mà cả hai anh em chàng bây giờ mỗi lần nhắc đến lại cười rộ lên. Bữa ấy, bà cụ già bán nước mời anh em chàng bằng câu: “Cậu mợ vào xơi nhãn, nhãn Hưng Yên ngọt lắm”.

-Anh Mỹ ơi, chè sen em nấu ngon ngon là. Ông tướng lười như quỷ, me phải bảo em bưng vào hầu đấy.

Cô đặt chén chè xuống mặt bàn. Mỹ vẫn ôm lấy đầu, không nhúc nhích. Cô nhấc cằm anh lên và cười:

-Cứ làm trò mãi. Giá bây giờ người ta cho tiền đi xem ciné thì đã nỏ như khướu. Ăn đi nào!

Mai cầm thìa múc chè đổ vào mồm anh trai. Cử chỉ vui vui, niềm nở của cô em gái khiến người anh không thể nghiêm nghị ôm cái hờn giận trong lòng được nữa, chàng phải bật cười.

-A! Cười rồi đấy nhé. Thế bây giờ đọc dictée 1 cho em bé viết đi thôi.

Cô mở sách ra, và dúng ngòi bút vào mực, đợi…

Mỹ vừa ăn vừa đọc một câu dài và khó quá, cô ngẩn ra không viết được chữ nào. Tức mình, cô dằn bàn thấm xuống bàn. Mỹ làm như không biết, đọc tiếp luôn câu khác dài hơn, mà lại đọc bằng một giọng khó nghe. Cô giận quá, gấp sách lại vất vào ngăn kéo, rồi đứng lên phụng phịu:

-Em xuống mách mẹ cho mà xem. Em mà thi trượt thì bắt đền anh đấy.

Mai vùng vằng ra cửa, chạy sầm sầm xuống cầu thang. Mỹ chạy theo lôi tay em trở lại.

Chàng mở sách của em để lên bàn, đưa bút vào tay em và bảo:

-Bây giờ anh sẽ đọc bài khác dễ hơn, có thế mà cũng khóc, không biết xấu!

Bàn tay chàng để lên tóc em gái, khẽ vuốt. Mai đang chăm chỉ viết, bảo anh:

-Cặp lại tóc giúp em đi! Tóc em dài lắm rồi anh nhỉ. Ước gì tóc em đừng dài nữa, để em làm con bé con mãi mãi. Như thế thích hơn. Đến ngày vấn tóc me lại bắt lấy chồng như chị Cả thì nguy. Em không được làm nũng cùng anh nữa, em không được anh kèm học nữa…

Nghe em gái nói như con sơn ca, Mỹ thấy lạnh cả lòng, chàng buông sách xuống, lơ đãng nhìn ra cửa sổ.

Mai đặt tay mình lên bàn tay anh trai:

-Anh buồn gì thế?

-Có buồn gì đâu?

-Anh nói dối!

-À, anh đang nghĩ một ngày kia em sẽ lấy chồng… Ngày ấy, em sẽ vui lắm mà anh cũng thế… Anh sẽ uống rượu rõ say, như hôm tiệc cưới chị Cả… Rồi đêm ấy, trong khi em ở nhà chồng, anh sẽ vào tiệm nhảy, uống rượu thật nhiều, cười đùa cho mỏi mệt, rồi đi lang thang suốt sáng ngoài đường.

Mai lay mạnh cánh tay anh trai:

-Anh này đến điên thật mất thôi! Anh rủ rỉ cả ngày như con gái, còn biết gì là chơi bời. Đọc đi, nói nhảm mãi mất thì giờ.

oOo

Ở thư viện về, không thấy em, Mỹ buồn bã hỏi vú già:

-Cô Mai lại đi chơi rồi phải không?

Chàng chán nản bước lên thang gác, không hát như mọi khi, hễ chàng đi đâu về Mai đã léo xéo gọi chàng lên buồng học. Chàng biết em mình lại đến nhà Yến, cô bạn gái thân nhất, để học đàn. Như thế có gì lạ, nhưng nghĩ đến câu cô em nói với chàng hôm qua: “… cái thằng anh con Yến nó cứ lấm lét nhìn em” thì chàng lại tức tối, không chịu được.

Chàng gieo mình xuống nệm giường, thấy khổ tâm và lo lắng. Càng nghĩ, chàng càng nhận thấy mình đã quá đùa, bằng một cách táo bạo với tình yêu. Mà tình yêu – theo nghĩa chính của nó – thì đối với chàng ở trường hợp này là tội lỗi. “Không thể như thế được!” Mỹ úp mặt xuống gối mà nói vậy.

Chàng xấu hổ vì ý nghĩ và hành động bất chính của mình. Đã nhiều khi chàng lo rằng chàng sẽ thành thật yêu người ấy, yêu như người ta vẫn yêu nhau, thì thật là tai hại. Còn luân lí chặn ở trước mặt. Có lẽ nào nhảy qua nó để làm một thằng liều không cần hối. “Chỉ vì em mình quá đẹp!”. Thật vậy, chỉ vì Mai đẹp, cho nên người anh ấy mới khổ sở thế này.

Mai với Mỹ là con cùng cha khác mẹ, nhưng mẹ Mai thương yêu Mỹ lắm, vì vậy chàng vẫn gọi bà bằng me. Mai rất hợp tính Mỹ, vì Mỹ hiền lành, biết chiều chuộng Mai từng tí. Đi chơi đâu Mai cũng rủ Mỹ đi cùng; đi xem chớp bóng, Mai cũng cần có người anh ấy ngồi bên cạnh để hỏi tên tài tử. Sự thân mật, gần gụi đó lâu dần khiến Mỹ đâm ra hoang mang rằng chàng không còn là người anh trang nghiêm nữa. Chẳng đã có lần, bà lão già bán nước mời anh em Mỹ: “Cậu mợ vào hàng xơi nhãn Hưng Yên?”. Và một lần sau nữa, anh xe ở ngoại ô cũng lém lỉnh mời: “Cậu mợ lên xe!”.

Mỹ đã thẹn đỏ mặt, hôm ấy khi đi chơi về nhìn thấy bà Hàn. Nhưng Mai thì ngây thơ và vô tình cho đó là những chuyện vui vẻ, chả thế mà vừa về tới cửa cô đã láu táu kể lại cho bà Hàn nghe, rồi Mai và bà Hàn cùng cười vui vẻ.

Đôi lần cô em ốm, Mỹ hết sức chăm nom thang thuốc. Có khi chàng ngồi bên giường, bóp dầu cho em và nói chuyện chớp bóng em nghe, vì Mai chỉ thích chớp bóng và đàn.

Ngày nghỉ các cô bạn cùng trường Mai đến rủ cô đi chơi thì Mỹ chẳng vui lòng, hình như suốt ngày hôm ấy, vắng bóng em chàng thiếu thốn một cái gì… Chàng muốn ích kỷ để được con chim xinh đẹp ấy luôn luôn bên mình. Lúc nào chàng cũng sợ nó bay đi… sợ nó gặp phải một con chim khác nào có giọng hót hay, sắc lông đẹp sẽ rủ nó bay theo… Với các bạn gái của Mai, Mỹ còn ghen tị, tức tối vì bị họ tranh cướp mất người em gái xinh đẹp, huống chi ngày hôm qua thằng anh con Yến cứ lấm lét nhìn em thì chàng không lo sợ sao được.

Từ nãy, Mỹ vẫn úp mặt xuống gối không phải để khóc mà để lo một ngày sắp đến.

oOo

Ngày ấy đến nhanh chóng quá! Đó là lẽ tự nhiên, ai mà giữ được.

Từ ấy đến bây giờ mới cách nhau có bốn mùa. Song bốn mùa đó cũng đã đủ cho một cái cây nhiều nhựa, lại được hút nhiều màu đất tốt, chóng lên cao. Mai là cái cây nhiều nhựa ấy. Nàng mau lớn quá, đến nỗi đã nhiều lần ông bà Hàn bàn đến chuyện gả chồng cho cô- Mỹ thường nghe thấy những lời bàn ấy, và chàng đã buồn rầu như khi được tin tình nhân sắp bỏ mình đi lấy chồng.

Càng ngày, Mỹ càng nghiệm thấy Mai giữ gìn ý tứ đối với chàng hơn trước. Cô không lên gác nhờ chàng kèm học nữa. Những cuộc đi chơi ngoại thành, đi xem chớp bóng, đi chơi rong các phố đông, cô cũng không rủ Mỹ, vì bạn gái của cô bây giờ nhiều lắm, họ đã công nhiên cướp mất người em gái của chàng rồi.

Nhưng cái làm cho Mỹ buồn hơn hết là bây giờ Mai đẹp hơn năm ngoái, năm xưa nhiều. Cô đã biết đua các bạn, điểm trang lộng lẫy như các cô đào chớp bóng. Chàng hằn học nghĩ rằng cô càng trang điểm khéo bao nhiêu, thì ở đằng đầu phố càng nhiều thằng trai trẻ đứng chờ. Bởi thế chàng nổi ghen lên, và đã một lần, như đứa trẻ con, chàng xúi bà Hàn cấm cô đua đòi các bạn, cấm cô đi học đàn, đi rong phố. Nhưng bà Hàn không cấm nổi cô, vì hễ ai nói nặng thì cô khóc.

Một ngày chủ nhật, Mỹ tẩn mẩn mở ngăn kéo bàn học của Mai. Bỗng chàng nhìn thấy một cái hộp đựng mấy lá thư màu xanh, màu tím người ta gửi cho em chàng. Mồ hôi toát ra, chàng xé nát một bức thư, rồi cả ngày hôm ấy, chàng tránh em gái như người ta tránh mặt một người đàn bà phản bội, thề quyết không nhìn nhận nữa. Nhưng Mai không hề biết đến cơn giông tố ở lòng người anh cô vẫn kính yêu.

Một sáng, cô đẩy cửa phòng Mỹ rón rén bước vào… Mỹ không thèm ngoảnh cổ lại, vẫn cúi đầu vào sách. Cô bịt mắt Mỹ, chơi hú tim như độ năm nào còn thơ:

-Em đố anh biết em mặc áo gì nào? Nói đúng, em thưởng cái này.

Mỹ lặng im, bởi chàng còn đương ngạc nhiên vì nỗi tại sao bữa nay cô lại tinh nghịch với chàng như thế. Mai cười vang lên:

-Chịu à? Thế đố anh em đi đâu về đấy? Và trên tay có cái gì?

Mỹ khó chịu gỡ tay em ra, vẫn cúi nhìn vào sách. Không để ý đến nét mặt bất bình của người anh, cô cười to hơn, đoạn với chiếc lọ sứ trên bàn, cô cắm vào đó những bông hoa hồng bạch tươi mơn mởn. Cô vỗ vai anh:

-Em vừa đi thuyền trên hồ Tây cùng anh Lạc. Anh ấy đậu thuyền để đưa em lên vườn nhà anh ấy. Anh ấy hái cho em bó hoa này. Em tặng lại anh, vì em biết anh thích hoa hồng lắm.

Mai quay ra, chạy sầm sầm xuống cầu thang, nhí nhảnh như con chim trong nắng mới.

Mỹ đứng dậy ra giường gieo mình xuống, lại úp mặt vào gối. Nằm như thế một lúc, chàng vùng ngồi lên, lấy va li, bỏ sơ mi, bít tất vào, để lát nữa ra ga đáp tàu vô Huế.

Ngọc Giao

Tiểu thuyết thứ Bẩy, số 277/1938
Trong tập truyện ngắn, Phấn Hương, NXB Tân Dân, 1939

 

  

Thursday, October 23, 2025

Làm Sao Nói - Thuyên Huy

 

Làm Sao Nói

 Tình tiết hư cấu, tự dựng, câu chuyện không thật nhưng có thể là thật

 

    Đám ve sầu bỏ đi từ những ngày đầu thu, mùa lại qua, một lần nữa, kéo nhau về mở hội, mừng hè đến trên hàng cây Sao cuối đồi. Hàng phượng già nua quanh sân trường và dọc hai bên đường lên ký túc xá, một mùa nữa rộn ràng nở hoa. Phượng tím đỏ ngập sân trường và tím đỏ cả một trời trên phố chợ. Tiếng ve sầu kêu, len vào từng khung cửa lớp học. Học trò lớn nhìn nhau buồn buồn, thầy cô giảng bài những ngày cuối năm chừng như khúc kinh chiều buông lỏng, thiếu hồi chuông thánh đổ.




    Không bao lâu nữa ngày thi cũng tới, lớp học sân trường hờ hững, thêm lần tiễn người đi, có người đi rồi về và người đi biền biệt. Cỏ bắt đầu úa vàng từng cụm trong sân, bóng nắng xuyên qua đếm dấu chân trên lối rẽ. Xác phượng chưa kịp rụng, đám học trò nhỏ đã vội rủ nhau ngắt khỏi cành, ép vào tập vở. Ký túc xá mùa này, đèn phòng học vẫn còn sáng quá nửa khuya, tiếng sách lật sang trang có đêm át cả tiếng bọn lớp nhỏ ngáy trong nhà ngủ.

*

    Sáng thứ Bảy, vừa phụ cô quản lý tính toán phần tiền ăn ở cuối năm, để kịp trả lại cho học trò, trước khi ký túc xá đóng cửa thì Tường chạy xe Honda vào tìm tôi. Hai thằng ngồi trên bực thềm của hành lang, trước phòng tiếp khách, nắng chưa lên hẳn ngoài sân. Vài ngày nữa là cuối năm học, bọn tôi sẽ tấp tểnh khăn gói xuống Sài Gòn thi, lần thi định mạng cho tuổi đời mười tám. Tường hỏi tôi nhiều về Thy hơn ngày thường và xem ra có vẻ muốn nói cái gì đó. Bọn tôi chơi thân với nhau, vui buồn lẫn lộn, nhưng chuyện riêng tư của tôi và Thy thương nhau chỉ có Ly, cô Quyên, cô dạy Vạn Vật cho lớp ban A biết.

*

    Tôi chơi thân với Tường từ những ngày mới lên tỉnh, lúc đó chưa có ký túc xá. Ba tôi gởi tôi ở trọ tại nhà chú Thìn, một người quen cùng quê bên nội, từng được ba tôi giúp đở. Tôi và Tường, hai thằng cùng học một lớp. Nhà Tường là một ngôi nhà ngói kiểu xưa, trước sân trồng toàn là hoa Sứ ở khúc cuối đường Ngô Quyền, cách nhà chú Thìn cái hàng rào bông Bụp. Trừ những giờ đi học, ở nhà, hai thằng chạy qua chạy lại như ăn cơm bữa. Có khi, tôi lại ăn cơm chiều bên nhà Tường, mặc cho thiếm Thìn tìm kiếm gọi một gọi hai. Tường có hai người chị làm việc dưới Sài Gòn, thỉnh thoảng về chơi đôi ba hôm. Ba của Tường làm công chức trong tòa hành chánh tỉnh.

*

    Ngày một lớn, tôi thấy đời ở trọ buồn buồn làm sao, may mà với chú Thìn, nếu với người khác không biết thế nào. Đầu năm đệ Tứ, hội phụ huynh học sinh tỉnh bắt đầu mở hai ký túc xá, tôi nhanh nhẹn xin vào nam ký túc xá, nằm trên khu đồi bên cạnh trường ngay ngày đầu. Ba má tôi lên tỉnh cám ơn gia đình chú Thìn, chú buồn hết mấy ngày, tuần nào, chiều trên đường về nhà từ tiệm ngoài chợ mới, chú cũng ghé vào ký túc xá thăm. Tường thì chủ Nhật nào mà tôi không về quê, thì hắn đạp xe đạp vô ký túc xá, hai thằng đèo nhau vòng vòng chợ cũ chợ mới, ăn bánh mì xíu mại, uống nước mía suốt buổi sáng rồi về nhà.

*

    Chiến trận mỗi ngày mỗi lan rộng hơn, bạn bè năm rồi đã có nhiều thằng rớt Tú tài Một vào lính. Tôi bình thản, đứng bên lề cuộc chiến với áo trắng mực xanh dù có đôi lần chạnh lòng xót xa khi hay tin người quen, mới đó đã nằm xuống ở một chiến trường xa xôi với tuổi đời chưa quá hai mươi. Mấy anh đệ Nhất ở ký túc xá năm rồi chỉ còn hai ba người lên đại học.

    Dạo này, đêm nào hỏa châu cũng bập bùng ở phía miệt trời biên giới và tiếng quân xa dồn dập, kéo dài nửa khuya ngang qua phố tỉnh. Chuyến xe đò cuối ngày từ Sài Gòn về cũng có vài hôm về muộn vì kẹt trên quốc lộ.




    Tôi làm quen Sài Gòn sau hai ba lần theo Tường xuống thăm mấy bà chị. Sài Gòn bấy giờ trời chập chững vào thu, có lá rơi và những cơn mưa bụi. Tôi ngu ngơ giữa đường phố đông người, tôi bắt đầu thương bóng dáng ai đó chưa quen trên lối nhỏ công viên Tao Đàn vàng lá úa, nhớ đường Nguyễn Du hiu hắt lá me bay, biết đứng trước cổng trường Gia Long, Trưng Vương chờ người dù chỉ là người trong mộng.

*

    Sáng thứ Bảy, tôi và Tường rủ nhau vào toà thánh Cao Đài xem hội chợ. Tòa thánh có nhiều cửa vào, nhưng người ta thường nhắc cửa số Một số Hai nhiều hơn vì đây là khu chính của nhà chánh toà và nằm trên đường chính của hai ngã ra chợ tỉnh, xe cộ lúc nào cũng rộn rịp xuống lên. Trời chưa có nắng mà người đã đông nghẹt trong khuôn viên, trên đường dọc theo khách đình, nơi có nhà ăn lớn dọn cơm chay, miễn phí cho khách thập phương từ xa đến và tín đồ đi cúng lễ trong những ngày lễ lớn như hôm nay chẳng hạn.




     Hai đứa tôi, tuy không phải là người có đạo nhưng tiếng chuông mõ vang vang, rập rình trong sương sớm, mờ mờ ảo ảo trên Bá Huê viên, chen hoa chen lá, cũng làm hai thằng  cúi đầu, lâm râm cầu nguyện. Biết đâu chút lòng thành nhỏ nhoi sẽ cho mình may mắn. Nhìn qua ngó lại, học trò trường tỉnh không thiếu ai, từ nhỏ đến lớn, chen chút người lại người qua gọi nhau ơi ới.

*

    Tường và tôi kéo vào nhà ăn của khách đình ngay lúc giữa trưa, tiếng chuông lễ ở đại chánh điện chưa dứt tiếng ngân dù khúc kinh cuối đã ngưng từ lâu. Người bắt đầu vào lưa thưa, tôi bổng dưng cười một mình, họ cũng như hai đứa tôi, đều là những người không đạo hay không ngoan đạo. Tường và tôi chọn cái bàn phía ngoài, có sẳn phần ăn cho bốn người, ngó ra khu vườn hoa Hồng đủ màu đủ sắc. Ở đây, vừa ăn vừa ngắm trộm mấy cô, trong sóng người "ngựa xe như nước áo quần như nêm".

     Tôi cầm đủa, chưa kịp bắt đầu, có tiếng con gái gọi. Tôi và Tường cùng quay lại dãy bàn bên trong. Ly, cô bạn đệ nhất A, con ông Chủ tịch hội Phụ huynh Học sinh đang ngồi với hai cô khác, vẫy tay chào cười híp mắt. Đông người quá, tôi ngồi xuống, bảo Tường làm dấu hẹn gặp nhau trước sân chánh điện, khi xong bữa ăn. Người càng trưa càng đông, bên trong không còn chỗ ngồi, bên ngoài sắp hàng chờ, dài qua khỏi sân giữa. Rừng thông rực nắng, mấy anh Bảo Thể bắt đầu dẹp trống đường, từ cửa số Hai lên, để chuẩn bị cho xe diễn hành.

*

    Gặp Ly, chúng tôi kéo nhau ra cái quán nước bên ngoài khuôn viên, ngay ngã ba gần rào cổng. Hai thằng bạn đi chung bỏ về trước, sau khi chào hỏi mấy cô gái qua loa vài ba câu. Ly lúc nào cũng vậy, nhanh nhẩu và cười luôn miệng:

- Sao, hôm nay anh Khang kiếm được người đẹp nào vừa ý chưa?

    Tôi đưa mắt nhìn, Tường cũng chưa nói gì thì Ly kéo hai cô bạn đi cùng ngồi xuống ghế tiếp lời:

- Em giới thiệu với hai anh, bạn em. Ly cầm tay cô bên cạnh, tóc ngắn:

- Đây là Thy, dân Tây Ninh xuống Sài Gòn học mấy năm, giờ chắc chán ở dưới rồi nên về lại tỉnh, học năm cuối. Còn đây là Xuân, nhà ở Trảng Bàng, chắc anh Tường có gặp rồi, hôm đến nhà em ăn giỗ bà nội.

    Tường lên tiếng:

- Anh thấy ngờ ngợ, không chắc lắm nên không dám hỏi.

     Ly nuốt ngụm nước đá chanh ngon lành:

-Tụi em năm nay học chung một lớp.

    Rồi thì câu qua lời lại, chúng tôi nói chuyện trường chuyện đời, dù đời của mình chưa hẳn được bao nhiêu. Không ai nhắc nhở gì chuyện trở vào toà thánh xem xe hoa, xem đại lễ. Trời gần về chiều, xe vắng dần, nhưng bụi đỏ cứ cuốn bay lất phất hai bên đường vì người qua người lại chưa ai chịu dừng chân. Gió từ một nhà làm kẹo bánh tráng đậu phọng nào gần đây thổi qua, mang thêm mùi thơm ngọt của đường mía tây thoang thoảng.

    Về đến đầu ngã rẽ vào chợ tỉnh, bọn tôi chia tay nhau ngay ngã ba Tòa Án. Tôi thấy Tường vui hẳn lên, hình như tôi nghe hắn hát hò gì đó, lúc bỏ tôi xuống trước cổng ký túc xá. Mây tím xuống thấp tự lúc nào ở phía bên kia sông, chưa tối hẳn nhưng một vài căn nhà tranh cuối xóm Chài đã lên đèn sớm. Tôi bất chợt gọi tên Thy, cô quản lý đứng cười chào từ phía hành lang nhà bếp. Đêm nay cũng như những đêm thứ Bảy khác, ký túc xá vắng tanh và thiếu tiếng cười.

*

 

    Tường tuy là bạn khá thân nhưng tôi chưa hề nói gì về chuyện tình của tôi với Thy. Chiếc xe lôi máy đến đón cô quản lý ra chợ, nổ máy chờ ngoài cổng rào. Cô quản lý đi rồi, tôi và Tường thả bộ ra cái quán nước đầu cổng trường, giàn hoa Giấy đỏ mong manh, rụng bên lề đường vẫn còn ướt đẩm sương đêm. Tiếng nhạc pha lẩn mùi cà phê, tan tác loang theo chiều gió sớm về phía bên kia sông, ở một góc đường dăm ba cành cây khô nằm trơ trụi lá.

    Đứa con gái con bác chủ quán, học trò cô Quyên, bưng hai ly cà phê ra bàn, thấy tôi gật đầu chào, hỏi tôi hôm nay uống cà phê sớm vậy rồi bỏ đi ngay không đợi câu trả lời. Tường cầm lấy ly, hơi nóng tỏa lên như khói thuốc, đưa lên nhấp chút xíu rồi nhìn tôi

- Chừng nào mầy về dưới, đi Sài Gòn luôn hay ghé Vên Vên trước?

    Tôi vẫn để ly cà phê nằm yên trên bàn, nhìn mông lung ra đường trả lời:

- Tao cũng chưa biết, nhưng chắc phải ghé nhà rồi mới đi.

- Có lẽ tao xuống Sài Gòn trước, tao chờ mầy ở dưới.

*

    Qua lại vài câu rồi hai thằng lặng thinh không nói gì thêm nữa, ngoài kia nắng lên vàng hanh theo màu cỏ úa, quanh sân trường, lưa thưa đôi tiếng ve sầu gọi bạn. Tường sửa lại thế ngồi, trông hắn có vẻ muốn cái gì đó, không giống ngày thường. Thấy vậy, không chờ hắn lên tiếng tôi hỏi ngay:

- Mầy có chuyện gì hả?

    Tường ngài ngại gật đầu thay vì trả lời, tôi nói tiếp:

- Nếu mầy thấy tao có thể nghe thì nói, còn nếu không thì thôi.

    Tường một lần nữa cầm ly cà phê lên nhưng không uống, nhìn tôi một hồi lâu, để cái ly xuống bàn lại, chầm chậm:

-Tao không biết nói sao đây, tao không ngờ là tao yêu Thy!

    Tôi chết đứng trong lòng, không phải Tường không ngờ mà chính tôi cũng không ngờ. Câu nói của Tường quay vòng vòng trong đầu, tôi cầm vội ly cà phê lên uống một hơi, quên mất cái đắng thấm đầu môi, cố làm ra vẻ bình tỉnh và cảm thông nhưng tim mình đau nhói.

- Thy biết mầy thương cô ta không, tôi nhẹ giọng hỏi Tường.

- Có thể, nhưng tao chắc phải nói chớ không nói thì làm sao Thy biết được.

- Không còn bao nhiêu ngày gặp nhau, chừng nào mầy mới nói ra, tôi hối hả hỏi Tường.

    Tường bỗng ngừng ngang đó, nhìn ra cổng trường, mấy cánh cửa sổ dãy phòng học của Thy hờ hững khép, rồi đứng dậy trả tiền. Tôi bỏ ra chờ trước quán, hai thằng lặng thinh, đi bộ dọc trên lề, trở lại ký túc xá. Bất chợt dưới cái nắng giữa ngày, trong hồn tôi như mưa, từng giọt đổ buồn thiu buồn thít. Tường đẩy xe Honda ra, ngồi lên yên chưa nổ máy nhìn tôi:

- Thôi để thi xong rồi tính.

    Tôi ráng nén lòng, gật đầu chào hắn:

- Mầy tính vậy cũng xong, không gấp gáp lắm đâu!

    Tường thấy vui lên mặt, vừa nổ máy xe vừa sửa lại thế ngồi. Tường bỏ đi rồi, tôi ngồi đại xuống bực thềm trước phòng tiếp khách, hồi chuông cúng Ngọ của chùa Thiền Lâm vọng về từ hướng chợ cũ, theo chiều gió ngược tiếng mất tiếng còn. Mùi cơm nóng tỏa ra từ phía nhà ăn, tôi thấy mình không đói.

*

    Ngày học cuối, xác phượng phủ kín một màu đỏ thẩm trên những lối đi quanh sân trường. Lớp học không có phấn trắng, không sổ điểm danh. Học trò, thầy cô, ai nấy buồn hiu nghe tiếng ve tiễn biệt. Học trò lớn nhỏ, tụm năm tụm ba, đầu sân cuối lớp, chuyền tay nhau viết vội mấy hàng trên trang lưu bút. Rồi cũng cảnh kẻ ở người đi, cũng cảnh ngậm ngùi nhung nhung nhớ nhớ như năm nào. Bọn tôi, đứa đứng đứa ngồi quanh hàng cây trứng Cá, dọc theo hành lang phòng khánh tiết trường, không ai nói gì nhiều. Trường tan học giữa trưa. Học trò từng cặp lặng lẽ ra  cổng, tiếng chuông reo kéo dài như muốn khóc.

    Một lần nữa, cổng trường hờ hững khép sớm hơn thường lệ. Như đã bàn trước, bọn tôi cùng cô Quyên thả bộ ra chợ cũ ăn trưa. Đường vẫn còn đông nghẹt học trò, nắng trưa chang chang đổ. Ăn xong, Tường có chuyện phải ra chợ mới, tôi hẹn lát nữa gặp lại Thy, rồi trở lại ký túc xá lấy túi xách, đến tạm ở nhà mấy cô một đêm, để mai đón chuyến xe đò sớm về Vên Vên. Chờ cô quản lý khóa cổng, tôi nói vài câu cám ơn và giã từ, cô cũng không quên chúc tôi nhiều may mắn. Tôi quàng túi xách lên vai, lửng thửng đi xuống đường.

*

    Cô quản lý thong thả đi về hướng xóm nhà trong. Từ dưới đường nhìn lên ký túc xá, hoa phượng nở đỏ rực hai bên, ở đó vắng tanh như chiều Ba mươi tết. Nắng ở lại một mình, chia nửa cái sân hoang bên sáng bên tối. Tôi đứng đợi xe lôi máy một hồi lâu, chưa có tiếng ve sầu kêu như mọi ngày.

    Trước hiên nhà, bông Sứ trong căn biệt thự, đầu ngã ba trường cứ tơi tả rụng, tưởng chừng như trời đã cuối thu, mặc dù bây giờ chỉ mới bắt đầu vào hạ.

 

Thuyên Huy

Viết cho nhiều người trong đó có một người đã nằm xuống.