Saturday, October 11, 2025

Ngày Xưa Chưa Xa - Vhp Hạ Vũ

 

 

Ngày Xưa Chưa Xa

Vhp.Hạ Vũ

 

Tôi vừa từ Mỹ về tới Saì Gòn hôm qua, sáng nay hối hả thuê xe xuống Mỹ Tho để tham dự buổi họp mặt Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Viện Hán Học Huế. Tuy trái giờ giấc, buồn ngủ vô cùng, tôi cũng hăm hở đi, Bên cạnh tôi là Ngọc đang kể tên những người bạn của nửa thế kỷ trước đã ghi tên có mặt buổi họp này. Tôi lắng tai nghe. Khi Ngọc nhắc tới tên “Anh Hai”, tôi ngạc nhiên hỏi:

 -Ủa, có Anh Hai hả. Sao bọn lớp mình bảo rằng anh đã mất vì bị Việt Cộng pháo kích vào xóm nhà anh năm Mậu Thân 1968?

 - Tin thất thiệt đó. 

                                    ***

 Nhắc tới Anh Hai, kỷ niệm mùa tựu trường của niên khóa 1960-1961 sống lại trong tôi. Vào mùa Thu năm 1960, ba cô gái "Xứ Nam Kỳ Quốc" tuổi trăng tròn lẻ khăn gói ra tận "Xứ Trung Kỳ"... "du học." Phải nói là vào thời điểm đó, con gái ở Sàigon xa gia đình đi học tại một nơi xa lạ là đất Thần Kinh xa xôi thì có lẽ chúng tôi là những người tiên phong. Nhiều người bạn thắc mắc hỏi tôi: "Tại sao Sài Gòn có biết bao nhiêu trường mà không học, lại học chi xa xôi tận Huế?" Câu trả lời: "Tại vì tôi muốn làm Tùy Viên ở các Sứ Quán Vùng Đông Nam Á" (!) mặc dù tôi không biết chức Tùy Viên là gì, làm những công việc gì. Thế là tôi hãnh diện được những cặp mắt của bạn bè ngưỡng mộ chiếu cố. 

 *

 {Sẵn đây tôi nói thêm sơ qua ngôi trường chỉ thọ được 6 niên khóa của chúng tôi. Vào năm 1959, thừa lệnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Bộ Giáo Dục VNCH thiết lập Viện Hán Học, trực thuộc Viện Đại Học Huế. 

Khi tốt nghiêp các sinh viên được bổ nhiệm vào các chức vụ sau đây: 

 1. Tuỳ Viên của Các Sứ Quán Việt Nam Cộng Hoà tại các nước vùng Đông Nam Á. 

 2. Chuyện Viên Viện Khảo Cổ. 

 3. Giáo sư Việt Hán các trường trung học Việt Nam Cộng Hòa .

 

 Sau khi Tổng Thống họ Ngô bị thảm sát cuối năm 1963 thì ngôi trường này cũng đối diện với tử vong. Trường thoi thóp sống tới hè năm 1965 thì chính thức bị giải tán. Trường có hai khoá tốt nghiệp, một sinh viên thủ khoa khóa I  được bổ nhiệm trông coi Cổ Viện Chàm ở Đà Nẵng, hai sinh viên khóa II được bổ nhiệm vào Viện Khảo Cổ Sài Gòn, tất cả sinh viên tốt nghiệp còn lại được Bộ Giáo Dục bổ nhiệm làm giáo sư Việt Văn khắp Miền Nam, có vài người sau này được thăng chức làm Hiệu Trưởng .

Niên khóa đầu, Hội Đồng Thi Tuyển chỉ có ở Huế. Năm sau Sài Gòn mới có Hội Đồng Thi. Khi danh sách trúng tuyển được công bố, chúng tôi vào Bộ Giáo Dục xin các nhân viên phụ trách điạ chỉ những người trúng tuyển để liên lạc với nhau và hẹn ngày lên đường chung.

 

*

Trước ngày nhập học một tuần lễ chúng tôi hẹn nhau cùng đi xe lửa ra Huế. 

Tại nhà Ga Sài Gòn, sau khi nước mắt ngắn nước mắt dài chảy ướt cả khăn tay, ba đứa chúng tôi: Cẩm Vân, Ngọc, và tôi (Hồng) tiến đến cửa xe lửa. Đang quyến luyến với cha mẹ mình thì một bà mẹ Miền Nam tiến tới hỏi thăm:

 -Chào các cháu. Các cháu đi đâu vậy? 

 Chị Cẩm Vân, người lớn tuổi nhất trong ba đứa, được chúng tôi gọi là chị Hai, trả lời:

 -Thưa bác, chúng cháu đi Huế học. 

 - Có phải các cháu học Viện Hán Học không?

 - Thưa phải. 

- Các cháu có ai quen ở Huế không? 

 Tôi mau mắn trả lời: 

- Thưa bác, chị Hai Cẩm Vân của chúng cháu đây có người quen ở Huế.

 - Ồ, tốt quá! Bác có đứa con trai cũng ra Huế học Viện Hán Học. Cháu Cẩm Vân cho bác gởi gấm con trai bác cho cháu nghen. Có gì cháu giúp đỡ nó bước đầu. Nó tên Công Đức, đứng đằng kia. Chị Hai sau một lúc "ngậm hột thị", cũng trả lời, giọng yếu xìu:

 - Dạ đựơc. 

 Ngọc thúc nhẹ vào hông tôi, cười hí hí và nói nhỏ:

 - Chị Hai đùm bọc hai "em gái ngang hông", giờ có thêm một "em trai khác họ" để đùm bọc nữa.

 Tôi hóm hỉnh thì thầm:

 - Trông anh cũng lớn, cỡ tuổi chị Hai, chắc phải kêu anh Hai. Chị Hai "đùm bọc" anh Hai! Gà mái thắng thế. Biết đâu chẳng là duyên trời dung rủi! 

 Chúng tôi lên xe lửa ngồi chung một băng ghế dài. Sau khi khóc đã đời vì lần đầu tiên xa nhà, Ngọc và tôi bắt đầu rù rì chuyện bà má miền Nam chân chất, thật thà gởi gấm con trai cho một đứa con gái cũng lần đầu tiên xa nhà đến "xứ lạ quê người" như con bà, và cười hi hí với nhau. Bà thương con quá mà quên mất nam nhi tính của một “đấng mày râu.” 

    Dự tính kể với chị Hai việc “khám phá thú vị” này, chúng tôi quay tìm, nhưng không thấy chị đâu, liền đứng dậy dáo dác ngó quanh. Thì... ô kìa, ở cuối toa xe lửa chị đang nói chuyện với một anh khá bảnh trai; tay chị cầm khăn tay thỉnh thoảng chùi mắt.

 -Ê Ngọc, chàng nào vậy bạn? 

-Làm sao mình biết được. Kiểu này có lẽ "kép chánh" rồi đây, trông có vẻ "xa chàng lòng dặc dặc buồn".

 Chợt thấy "anh Hai" ngồi ở băng ghế đâu lưng với chúng tôi, đang thả hồn ra ngoài toa xe lửa, có lẽ cũng đang mơ "về quê cũ xa mờ", tôi khều Ngọc ra dấu. Hai đứa nín lặng ngồi xuống. 

 Tới ga Thủ Đức, thì chị Hai về lại chỗ ngồi, mắt đỏ hoe. Nhìn lại thì “chàng” biến đâu mất. À thì ra anh đưa em một đoạn đường tình. Hai đứa chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, miệng mỉm cười "lơ lửng con cá vàng…" Chị nhìn thấy, xụ mặt. Chúng tôi biết mình bậy, bèn im lặng. Một lúc sau Ngọc "cười cầu tài" và "lấy điểm" bằng cách mời chị và tôi mỗi nguời một cái bánh ú đem theo ăn dọc đường, và... bỏ rơi anh Hai. Suốt đường dài, chúng tôi không nói chuyện với anh, mà anh cũng không làm quen với chúng tôi. Tối hôm sau tới ga Huế. Xuống xe lửa, chị Hai Cẩm Vân quên mất lời hứa miễn cưỡng chiều hôm trước. Chúng tôi theo người quen về nhà, bỏ anh Hai “tự mưu sinh thoát hiểm.” 

      Nhờ người quen và nhờ các giáo sư của trường, chúng tôi ổn định chỗ ăn ở rất mau, và vào học chung một lớp. Ngoài ba đứa chúng tôi, còn thêm hai người nữ nữa, và mười nam từ trong Miền Nam ra học. Tình cờ trùng hợp, anh Công Đức lại được đám nam sinh viên phong cho chức "Anh Hai." 

 Đám nam nữ xa gia đình này kết hợp với nhau thành một khối thân tình như trong một đại gia đình. Quan hệ nam nữ giữa chúng tôi rất trong sáng, quyết không làm mất niềm tin của các đấng sinh thành. Nhưng từ khi biết tin anh Công Đức được chính thức mang chức Anh Hai, đám "ngũ quỷ" chúng tôi bắt đầu chọc ghẹo ghép đôi hai người, dù biết rằng chị có “kép chánh” viết thư hằng tuần. 

 Vào những ngày Lễ -Tết, đám nam nữ Saigon càng cảm thấy cô đơn và nhớ nhà, tự tổ chức tiệc tùng riêng cho mình đỡ buồn. Đám nữ tham gia đóng tiền cho chị Hai, đám nam đóng tiền cho anh Hai. Chúng tôi tổ chức ăn uống, ca hát vui vẻ với nhau, và anh Hai chị Hai bị chúng tôi chọc ghẹo tơi bời. 

 Anh Hai biết mình xài tiền tùy hứng nên gởi tiền cho chị Hai cất giùm với lời dặn: đừng đưa tiền cho anh ngoài ba ngày đầu tháng, dù anh có lời yêu cầu. Chị Hai chấp hành "quy ước" rất nghiêm khắc. Một lần anh cần tiền rất khẩn thiết ngoài ngày quy định. Anh xin chị đưa tiền lại cho anh, nhưng chị nhất định không đưa. Chị bỏ ngoài tai lời giải thích và năn nỉ ỉ ôi gần gãy lưỡi của anh. Không được, anh đành bỏ cuộc, xoay cách khác. Vài hôm sau, anh đến gặp chị trách:

 - Tôi cần tiền "cứu mạng" (!) mà gặp phải ly nước chanh không đường nhiều đá lạnh, uống không vô. 

 Chị lòng tuy mềm nhưng miệng cứng, đáp: 

- Tôi chỉ chấp hành lời dặn của anh. Thôi thì đừng gởi tiền cho tôi nữa. Thế mà anh không tởn, vẫn tiếp tục gởi tiền cho người "đáng tin cậy nhất thế giới" của anh giữ giùm. Chuyện này bị tiết lộ ra ngoài. Thế là đám "nữ quái" bọn tôi có màn chọc ghẹo cho vui cửa vui nhà. Gặp anh, mỗi đứa một câu:

 -Anh Hai đưa tiền cho chị Hai đi chợ.

 -Anh Hai, chị Hai nhất định nhịn đói, chờ anh về ăn cơm kìa. 

- Anh Hai, chị Hai hết tiền rồi, đang kiếm anh kìa. v.v. 

 Mỗi lần như vậy anh Hai không nói gì cả, chỉ lườm bọn tôi một cái mà thôi. Những lúc không có ai, tôi còn bị anh cú đầu, và nói gọn lỏn năm chữ: “Con nhỏ này thiệt là..." 

 Bị chọc như vậy mà anh vẫn cứ gởi tiền đều đều cho chị Hai. Suốt mấy năm trời học chung, đi chơi lăng tẩm, đền đài, hẹn nhau đi xe đò, xe lửa Saigon - Huế... chung với nhau, tình cảm anh chị em chúng tôi trở nên thân tình thắm thiết. Tôi và Ngọc là hai kẻ chọc ghẹo anh nhiều nhất, không chọc chị vì biết trái tim chị đã có chủ. Chúng tôi cũng kín đáo theo dõi phản ứng của anh Hai một thời gian, không thấy gì khác lạ, chỉ có một đôi lúc bất chợt bắt gặp ánh mắt anh có vẻ xa vắng dõi theo bước chân chúng tôi. 

Đùa cho vui thế thôi, chứ thật ra ai cũng bận vừa học vừa “nuôi dưỡng tình cảm riêng tư” của mình, hơi sức đâu để ý đến tiếng tơ lòng của người khác, nên chuyện đó rồi cũng qua đi. Sau khi chúng tôi ra trường, mỗi người một ngã, khắp bốn phương trời. Rồi chị Hai lập gia đình, theo chồng đổi về Kontum. Vài năm sau tôi cũng về Sài Gòn. Ngọc thì về quê nhà Bình Dương. Người nào cũng có gia đình riêng tư, chạy lo cơm áo gạo tiền trong thời buổi chiến tranh khó khăn đủ mọi phương diện, chúng tôi hầu như bặt liên lạc với nhau. 

 Dạo gần đây, con cái đã lớn, người nào cũng đã nghỉ hưu nên quay về quá khứ, ôn lại chuyện xưa, và rồi tìm liên lạc lại với nhau qua email, điện thọai. Nhờ đó tôi mới biết được ai còn ai mất, ai đi ai ở. Người bạn thân là Ngọc thì còn ở VN, chị Hai định cư bên Mỹ. 

 

                                 *** 

 Hôm nay tôi từ xa ngàn dặm, về thăm cha mẹ, sẵn dịp họp mặt để gặp lại bạn bè xa nhau cả nửa thế kỷ. Chị Hai Cẩm Vân không về được. Vừa bước xuống xe, các bạn ùa nhau tay bắt mặt mừng . Nước mắt hội ngộ còn lăn dài trên má của một vài bạn nữ. Anh Hai tới xiết chặt tay Ngọc và tôi, xong nhìn dáo dác hỏi:

 -Chị Hai của các em đâu?

 Tôi dí dỏm đáp:

 -Chị Hai Lớn kẹt, không về họp được. Có Chị Hai Nhỏ ở đây không, cho em chào chị một tiếng. 

 Anh cú đầu tôi thân mật nói: 

- Con nhỏ này thiệt là... Ngày xưa mỗi lần gặp mặt các em, anh sợ lắm biết không? Bây giờ các em vẫn  làm anh tiếp tục sợ. Bà xã anh hôm nay kẹt việc gia đình, không đi với anh được.

 - Anh còn sống nhăn răng mà có nguồn tin ác ôn cho anh đi "đoàn tụ với tổ tiên" vào năm Mậu Thân 68. 

- Tin đồn cũng khá chính xác đó. Anh bị thương suýt chết. Nhờ bác sĩ người Mỹ tay nghề cao với thuốc men tốt mới còn đứng nói chuyện hôm nay, nếu không anh "tiêu diêu miền cực lạc" từ năm đó rồi. Nhân dịp các bạn còn đang tay bắt mặt mừng ồn ào nhộn nhịp, anh khều tôi ra góc vườn hỏi:

 -Chị Hai của em lúc này ra sao? Sao không về họp?

 Tôi nhìn anh ngập ngừng, xuống giọng; 

- Chuyện không được vui lắm. Để sau buổi họp em kể cho anh biết. Nói ra bây giờ mất vui của ngày Họp Mặt đi. 

- Em không nói ra càng làm anh hồi hộp, càng làm anh mất vui. Anh năn nỉ em, nói đi. 

 -Tháng 3 năm 1975, chị từ Kontum theo đường Quốc Lộ 14 về Nha Trang, cận kề cái chết nhiều lần, và mất hết của cải, tài sản. Chị khủng hoảng tinh thần. Tiếp theo chồng đi tù cải tạo. Một mình chị bương chải nuôi sáu đứa con và chồng trong tù. Chị mất hết sinh lực và suy sụp tinh thần. Sau đó thì trí nhớ mất lần lần. Bây giờ chị không còn nhận ra em nữa, nhưng chị vẫn nhớ một điều...

 Tôi ngưng lại, hít thở một hơi dài để đè nén cảm xúc mình xuống, rồi tiếp: 

-Anh à, thỉnh thoảng chị dặn con cái: “Nhắc má đầu tháng đưa tiền cho anh Hai, đừng để má đưa sớm hơn.” Ở nhà, chị cũng thứ hai, các em của chị gọi vợ chồng chị là Anh Hai, Chị Hai, nên các con chị tưởng mẹ dặn đưa tiền cho cha của chúng, chỉ có mình em là hiểu đúng ý chị thôi. 

 Ánh mắt reo vui của anh chợt tối sầm lại. Anh ngồi xuống bên gốc cây, mặt buồn rười rượi, mắt nhìn xa xăm. Tiếng reo vui rôm rả của bạn bè bên tai tôi, đột nhiên xa vắng như vọng lại từ một quá khứ thân thương của một thời hoa mộng. Tôi nhìn anh, im lặng... Lời an ủi trở thành vô nghĩa trong lúc này!  

Người chuyển bài – HV - USA

 


 Linh Mục Cao Văn Luận Viện Trưởng Viện Đại Học Huế đọc diễn văn

 Lễ Khai Giảng Viện Hán Học niên khóa 1961-1962

 

 

 

 

 

 

 

 

 

No comments: