TRANG CHỮ PHÙ SA
Năm một chín bảy ba, sau hiệp định
Paris, Tuyển cũng vừa xong sư phạm, cấp tiểu học. Anh và các bạn đồng môn phải
bốc thăm nơi đi dạy.
Mảnh giấy mở ra trong tay anh,
lem nhem hàng chữ đánh máy: Huyện Vàm Cống, tỉnh Vĩnh Long. Nét mặt anh thoáng
rực lên. Vĩnh Long dẫu sao cũng là đất quê ngoại.
Trường quê nằm ven con sông hẹp,
đục quánh phù sa, vỏn vẹn 3 lớp Năm Tư Ba. Mái và vách lớp lợp lá chằm, xây
trên miếng đất nện đắp cao. Sân chơi là một khoảnh đất hẹp phía trước, trồng 3
cây điệp. Giữa sân, một cột cờ dựng trong vuông đất con trải ngói đỏ đập vụn,
chung quanh lót gạch nung, nơi đám học trò xếp hàng kéo và chào cờ, đồng thanh
hát quốc ca mỗi sáng thứ Hai. Phía trước, ven lộ đất, một hàng rào bùm sụm tươi
lá. Cổng trường gỗ tạp, phía trên đóng tấm bảng gỗ vòng cung sơn xanh, kẻ
hàng chữ đen sờn tróc: “Trường tiểu học Vàm Cống”.
Ông Mười Rạng, một giáo viên tiểu
học về hưu, làm hiệu trưởng, có nhà và vườn cây ăn trái cách trường chỉ một con
mương. Quản gia kiêm giám thị là chú Chín Cò ốm o, nước da nắng ăn đen thui, mốc
thếch, mùa mưa cũng như mùa nắng, lỏng khỏng trong chiếc áo sơ-mi dài tay tưa sợi
màu xám tro và chiếc quần nông phu màu đất bùn, mấp mé ngang mắt cá. Chú cùng
gia đình, một vợ 3 con, sống đùm dụp trong chéo nhà cất bên ao nước trồng súng
phía sau trường. Ba đứa con của chú cũng là học trò của trường, thằng Bậu là anh
Hai theo học lớp Tuyển. Ban giáo viên trường gồm có cô Hường dạy lớp Năm, thầy
Lực dạy lớp Tư và anh, phụ trách lớp Ba. Lớp của anh tất cả 34 học trò, 25 nam,
9 nữ, tuổi tác chênh lệch. Thằng Sửu lớn tuổi lớn xác, hớt tóc muỗng dừa,
tướng tá lực điền, đi chân không, mép lún phún râu măng, đi đứng và ăn nói lanh
lợi, được bầu làm trưởng lớp.
Bữa nọ, sau giờ học, theo thông lệ
Tuyển cất tiếng:
“Các em, có ai muốn hỏi gì
không?”
Đám học trò đưa mắt ngó nhau. Chộn
rộn một đỗi, thằng Sửu ngồi bàn cuối lớp đứng lên, khoanh tay:
“Thưa thầy, em muốn… muốn…”, thằng
học trò lắp bắp, “…trình thầy chuyện nầy.”
Cả lớp sột soạt quay lại, ngó Sửu
chăm bẳm.
“Chuyện gì?”, Tuyển mau mắn.
“Dạ, … dạ, …”, Sửu lúng túng, rồi
thốt mau như sợ quên, “…chuyện em phải nghỉ học.”
Đám học trò đồng loạt ngoác miệng
cười lớn. Đứa nầy hích vai đứa kia, khúc khích. Tuyển còn lưỡng lự, chưa biết
phải nói sao thì vài đứa đã lanh chanh:
“Nó đi lấy vợ đó thầy!”
“Thằng Sửu lên xe bông, tụi bây
ơi!”
“Con Quẻm dính bầu với thằng Sửu,
thầy ơi!”
Tuyển cố nín cười, phất tay:
“Các em im lặng. Sửu, em định nghỉ
học vì chuyện gì?”
Mặt Sửu đỏ gay, đầu cúi gằm, lí nhí:
“Tía má em… bắt em ở nhà đi làm
ruộng… Nhà đông anh em. Em là con trai lớn… cho nên tía má kêu em ở nhà phụ hợ
chuyện nầy, chuyện nọ… Ổng bả còn bắt em… lấy vợ.”
Tiếng cười vang lên rần rần.
“Rồi chừng nào em nghỉ học?”
“Dạ, em cũng chưa biết… Chắc tới
mùa gặt, em nghỉ. Khoảng tháng Mười, thưa thầy.”
-oOo-
Lúc Tuyển dọn về đây, trong khi
tìm chỗ trọ, anh xin phép hiệu trưởng Mười Rạng được tá túc tạm trong trường.
Anh đưa tiền cho vợ ông Chín Cò đi chợ, nấu cơm. Ông Chín Cò đem cho anh một
chiếc giường gấp, vải bố, bốn góc cắm cột giăng mùng, chỉ anh cách lắp ráp. Chủ
Nhật, Tuyển nhờ thằng Sửu dẫn ra chợ mua tấm chiếu trơn, cái gối kê đầu, một
cái gối ôm và một cây đèn trứng vịt. Lần sau, anh đi một mình, mua thêm cây viết
nguyên tử, xấp giấy pơ-luya, mớ phong bì.
Đêm nay trăng sáng. Không một miếng
gió. Không gian tĩnh mịch, trong vắt như bầu nước giếng. Lâu lắm, vẳng lại từ
xa tiếng đại bác ầm ì, nhói đau như kim chích. Như mọi đêm, ăn cơm xong, Tuyển
ra ngồi hóng mát thẩn thơ trong sân trường, uống trà, hút thuốc. Tiếng côn
trùng réo rắt lẫn cùng tiếng ếch nhái uềnh oang. Tâm trí anh rỗng rang như hộp
trống. Giây lát dấy lên từ đáy lòng chút rung cảm vu vơ. Những thanh âm, những
hình bóng, những khuôn mặt nhập nhòe vào nhau, thoáng hiện thoáng mất. Tuyển
rùng mình nhận ra ý thức anh vừa khẽ chạm nỗi gì như thể cô đơn với đầy đủ màu
sắc, tiếng động, hương vị và xúc cảm. Chỉ một khoảnh khắc, rồi tan biến.
Tuyển rít hơi thuốc sau cùng, dụi
tàn thuốc vô đĩa con. Chợt, từ sân sau vẳng lên khe khẽ giọng ai hát một bài vọng
cổ. Của ông Chín Cò.
Tuyển đứng lên, đi ra hướng ao
súng. Trong hiên nhà gia đình ông quản gia, hắt leo lét ánh đèn dầu, anh thấy
ông Chín đang ngồi tréo chưn cạnh chiếc bàn gỗ tạp, gảy đờn tây ban cầm, cất giọng
dịu nhiễu một bài vọng cổ. Bà vợ và 3 đứa nhỏ quây quần thẩn thơ bên cạnh. Thấy
anh, người vợ đứng dậy, vô nhà xách ra chiếc ghế đẩu, mời anh ngồi. Ba đứa nhỏ
cũng đứng lên khoanh tay, gật đầu chào anh, rồi bỏ chạy cười khúc khích vô nhà.
“Hò ơ… Ghe chiếu Cà Mau nhuộm màu
tươi thắm. Công tôi cực lắm, mưa nắng dãi dầu. Chiếu nầy tôi chẳng bán đâu. Tìm
cô không gặp, hò ơ… tôi gối đầu mỗi đêm…
Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào bên
dòng kinh ngã bảy. Sao cô gái năm xưa chẳng thấy… ra… ớ… ơ… chào…” (1)
Dứt bài, ông Chín Cò quay ngó Tuyển,
nhoẻn cười mím chi.
“Thầy có biết đờn không vậy?”
“Biết chút đỉnh thôi ông. Mấy bài
tân nhạc.”
Ông Chín Cò đưa cho anh cây đờn,
nói:
“Đờn hát nghe chơi, anh giáo.”
Tuyển cầm đờn, búng thử, lên dây,
hắng giọng:
“Tôi thương miền quê, nhớ hoàng
hôn trên đất xưa. Nghe tiếng tiêu mơ màng chiều hè. Tôi yêu người xưa, áo nâu
hương duyên thật thà. Đời mặn nồng hồng lên đôi má…” (2)
Tuyển buông đàn. Vợ chồng ông
Chín Cò vỗ tay lách chách.
“Quỷ thần ơi, anh giáo đờn hát điệu
nghệ như ca sĩ đài phát thanh Sài Gòn”, ông Chín trầm trồ.
“Anh giáo đi dạy chi khổ vậy? Đi
hát kiếm tiền sướng hơn không!”, bà vợ thêm vô.
“Tui thích hành nghề dạy học hơn,
ông bà à!”
Vừa khi đó, từ cổng trường, có
người bước vô, trên tay cầm khay đựng mớ chén con. Cô gật đầu chào, nói nhỏ:
“Con chào ông bà Chín, em chào
anh giáo. Má em ở nhà ở bên kia, nghe được tiếng đàn, giọng hát của ông Chín và
anh giáo, nhân lúc nhà nấu chè trôi nước, biểu em múc đem qua mời ông bà Chín
và anh giáo ăn lấy thảo.”
Bà Chín nở nụ cười hóm hỉnh, giơ
tay đón lấy khay chè thơm ngát hương gừng và nước đường thốt nốt. Đưa chén chè
cho Tuyển, bà thì thầm:
“Cô Duyên, con gái lớn của ông bà
hiệu trưởng, nấu ăn số một ở huyện Vàm Cống đó thầy.”
Bữa nọ, sau giờ dạy, hiệu trưởng
Mười Rạng mời Tuyển lên văn phòng nói chuyện. Ông hỏi anh, nếu thích thì tới ở
trọ nhà vợ chồng ông. Nhà ông có căn nhà chứa đồ cũ, mái lá vách ván, chỉ cần dọn
dẹp, sửa sang lại, trổ thêm cánh cửa sổ, sẽ thành chỗ ở sáng sủa, tươm tất.
Duyên, đứa con gái của vợ chồng tôi sẽ lo việc nấu cơm cho anh. Tiền lương dạy
học mỗi tháng của anh sẽ được trừ vô tiền mướn nhà.
-oOo-
Thời gian trôi qua… trôi qua…
theo những nghiệt ngã của cuộc nội chiến Bắc
Nam dai dẳng, để rồi kết thúc
vào một ngày cuối tháng Tư, năm một chín bảy lăm…
Năm ấy, sau ba ngày hai đêm vượt
ngàn, Duyên mới tới được trại học tập cải tạo thăm nuôi chồng nằm sâu trong núi
rừng Việt Bắc. Tuyển bị đưa tới đây, chỉ vì chức
vụ đại úy của anh sau lần tổng
động viên năm ấy.
Chờ đợi mỏi mòn, cuối cùng rồi
cũng tới lượt Tuyển được phép ra gặp cô. Tuyển ốm và xanh thấy rõ. Gặp lại
Duyên, hai mắt anh rực sáng những thương yêu và hy vọng. Thời gian thăm nuôi vỏn
vẹn 30 phút. Người quản giáo canh giờ thăm nuôi lần đó chính là thằng Sửu.
Chuyện hy hữu nầy đã được Tuyển kể
lại trong một lá thư viết gởi Duyên:
“…Hẳn em còn nhớ thằng học trò
tên Sửu học lớp Ba trường Vàm Cống thuở trước. Cái thằng học trò già đầu nhứt
trường. Bữa nọ, nó báo tin cho anh và bạn bè cả lớp hay chuyện nó nghỉ học về
nhà làm ruộng và lấy vợ.
Sau khi chuyển tới trại nầy, anh
nghe kể lại, trong ban quản giáo, có độc nhứt một người nói giọng Nam. Gặp được
anh ta, mới vỡ lẽ, thằng Sửu chớ không ai khác. Phải, thằng Sửu lớp Ba trường
tiểu học Vàm Cống, tỉnh Vĩnh Long thuở nào. Thấy anh, ban đầu nó chỉ đăm
đăm mắt ngó, không nói lời nào. Cho tới hôm nọ, kêu anh lên làm việc, nó mới thủ
thỉ tâm sự, giọng nghe như muốn khóc.
“Thưa thầy, cho tới lúc này, em vẫn
không bao giờ quên những ngày em theo học lớp Ba trường tiểu học Vàm Cống với
thầy. Đó là quãng thời gian, tuy ngắn ngủi, nhưng gắn bó thân thiết nhứt đời
em. Giờ đây em mới thấy ra, em đã lầm đường… Nhưng lỡ rồi, em không thể làm
khác hơn được. Em chỉ xin thầy tha thứ cho em…”
Thì ra lần đó, nó nghỉ học không
phải để đi làm ruộng hay lấy vợ gì ráo, mà cốt để vô bưng theo mặt trận giải
phóng.
Khuya ấy, trong giấc chiêm bao bầu
bạn cùng anh mỗi đêm, anh không mơ thấy những món ăn ngon hay những lần chăn gối
cùng em, mà thấy lại khung cảnh và đám học trò lớp Ba năm nào trong bữa tiệc
chia tay thằng Sửu đi lấy vợ. Lần đầu tiên nó sắm đồ Tây với áo sơ-mi dài tay bỏ
ngoài quần xà lỏn ngắn xủn, ngó như không bận quần.
Tới màn văn nghệ bỏ túi,
anh mượn cây đờn của ông Chín Cò, đệm cho trò Chanh hát bài “Ngày Tạm Biệt”. Trong
chiêm bao, anh nghe tiếng cô nhỏ luyến láy rõ mồn một từng câu, từng chữ:
“Hôm nay đây còn vui trông thấy
nhau. Bên tiếng ca, tiếng đàn vượt trời cao. Lời vui thắm thiết đưa trao, như
khi mới gặp nhau…” (3)
Và anh cất tiếng hát theo, lớn đến
nỗi người bạn tù nằm bên cạnh phải lay anh thức, mới ngưng…
Dù sao đi nữa, anh cũng thấy mình
vô cùng may mắn, vì đã gặp được thằng Sửu trong trại cải tạo này. Nhờ nó, mà
anh không phải làm những việc nặng nhọc, không thường xuyên bị kiểm thảo tư tưởng,
mà còn có thêm chút thịt cá, rau xanh và được hưởng một vài đặc ân khác, để tiếp
tục sống còn, nuôi dưỡng niềm tin sẽ tới một ngày được trở về cùng em và hai
con. Cũng chính nó đã giúp anh trao tay lá thư này cho một người thăm nuôi, đem
về Sài Gòn, tới nhà đưa em, không qua bộ phận kiểm duyệt…”
NND (08.2025) - Ngô
Nguyên Dũng
(1) Vọng cổ “Tình Anh Bán Chiếu” – Soạn giả Viễn Châu.
(2) “Nhạt Nắng” – Sáng tác: Xuân Lôi.
(3) “NgàyTạm Biệt” – Sáng tác: Lam Phương.
Người chuyển bài – SPSG
*
Ghi chú của trang 304Đen: 5 chữ “cuộc nội chiến Nam Bắc” là chữ của tác giả.
Xin để tùy người đọc nhận xét.

No comments:
Post a Comment