Tây Đến Rồi Tây Lại Đi … (1859 – 1946)
Kể về người Pháp sang đất Sài Gòn, trong số những
người tiền phong phất cờ, phần nhiều lắm người hữu học, thông thái:
–Aubaret, làu thông chữ Hán, từng cầm đầu
phái đoàn phiên dịch trợ lực sứ đoàn Phan Thanh Giản sang triều Napoléon III
thương thuyết việc chuộc ba tỉnh miền Đông xứ Nam Kỳ. Có soạn một bộ văn phạm
Việt Nam (grammaire) và dịch một phần bộ Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức
ra Pháp văn.
–Luro dạy luật học và phong tục học
tại Trường đào tạo các Tham Biện, tục gọi Collège des Stagiaires (trường ở chỗ
học đường Taberd hiện nay), đồng một thời cùng các giáo sư Trương Vĩnh Ký,
Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh Của.
–Philastre dịch bộ Hoàng Việt Luật
Lệ (Code de GiaLong).
–Doudard de Lagrée, Francis Garnier, là
nhà thám hiểm, kẻ đi khảo sát sự lưu thông hai sông Mékong, Nhĩ Hà (sông Hồng)
người tìm ra cảnh Đế Thiên, Đế Thích (Angkor).
–Sylvestre khảo về cổ tiền và luật
bản xứ.
Nếu nhắc lại đây, tưởng không sao kể hết. Ngoại
trừ phần tử xấu, thực dân hạng nặng, qua đây vơ vét bóc lột, và tàn bạo, thì giới
mô phạm, giới y tế, – phải nhìn nhận – đã để lại nhiều kỷ niệm tố vì làm tròn
nhiệm vụ khai hoá trí óc, nâng cao sức khỏe người Việt không ít.
Cuối thế kỷ XIX, bắt đầu thế kỷ XX, Nội các
Pháp ngán tài xuất chúng và tánh cứng cỏi của Paul Doumer nên tìm cách không
cho ông ở Paris và “trấn” ông sang làm Toàn Quyền Đông Dương (1897). Doumer có
tánh độc tài tự quyết nhưng rất thanh liêm, ông muốn mở mang xứ Bắc Kỳ để nhử
nước Trung Hoa, không thiết khuếch trương thổ sản đất Nam Kỳ. Trái lại, Paul
Blanchy là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ lại muốn mở mang miền Nam hơn xứ Bắc.
Do đó hai nhân vật này không thuận với nhau, nhứt là về cuộc xuất phát chi tiêu
công nho thuộc địa (budget colonial). Paul Blanchy mất tháng chạp 1901. Paul
Doumer mùa xuân 1902, sang Pháp rồi ở luôn bên ấy không trở qua Đông Dương nữa.
Blanchy và Doumer đã ghi đậm dấu chơn tại đây, mỗi người mỗi cách… Gì thì gì,
hai người đã mở đầu một nghệ thuật mới mẻ trong xứ: nghề viết báo, trước bành
trướng tại Sài Gòn, sau mới tung hoành đất Thăng Long.
Paul Doumer
Tờ L’Opinion” (Lucien Héloury chủ trương), tờ
“Le Courrier Saigonais “(Paul Blanchy làm chủ), tờ “La France d’Aise” của
Héloury giao lại cho bà Luoise Alcan bỉnh bút thì cực lực bên vực Paul Blanchy.
Riêng tờ “Le Mékong” do hai anh em Le Riche
biên soạn thì mật lãnh phụ cấp và triệt để ủng hộ Paul Doumer.
Thời này là thời ký giả Pháp có dịp ẩu đả ngay
giữa quán rượu hoặc so gươm, bắn súng lục trong các cuộc đánh gươm rửa hận
“duel”.
Ký giả Julien Delpit nhờ Doumer làm mai, cưới
vợ là ái nữ ông Lê Phát Thanh, triệu phú. Delpit lêu lổng xài hết sự nghiệp của
vợ rồi đưa nhau lên Lào làm công chức.
De Lachevrotière xuất thân làm cho báo
“L’Opinion” ngày nọ đến xin chủ cho lên lương, muốn xin được bốn trăm đồng bạc
một tháng, Héloury không nhận lời, De Lachevrotière nhảy ra lập tờ
“l’Imparatial” do Camille Aymard mua lại của Gallois Montbrun.
Ganesco, dòng dõi một nhà viết báo Pháp có tên
tuổi, qua đây làm đầu phòng văn cho Thống Đốc Rodier, nghỉ ra viết báo, rồi nhảy
trở vô quan trường, đổi xuống làm Tham biện Tỉnh trưởng trường Tân An. Để kéo
dân Sài Gòn xuống đất Tầm Vu ăn chơi ngày chúa nhựt và cũng để giành mối Hội
Đua Ngựa, lão tham biện “công tử bột” nầy bày ra cuộc thi chó bắt chuột gọi
“ratadrome” (Lamagat, tr. 171).
Vào thời ấy, mỗi ly rượu khai vị
(consommation) thứ mắc tiền nhứt như abinsthe, chỉ có hai cắc bạc (0 đ 20) một
ly cối.
Khởi đầu, dùng đèn dầu lửa (dầu hoả) đã là
sang, vì trước kia ta thắp đèn dầu phộng, đèn mỡ cá. Dân chúng muốn đi đêm phải
xách đèn lồng, đèn tắt thì lính kêu phạt tội vi cảnh. Các nhà số, nhà điếm, thì
có đèn đỏ, đèn xanh. Sau nầy xài đèn khí đá (carbure). Tết đến, lấy ống chì bắt
bông mai, cắm lộc bình, đốt lên, mỗi cái hoa là một đóm đèn sáng rực, con nít
và dân quê ngó không nháy mắt. Rồi đến thời kỳ xài đèn ét xăng có man chon sáng
xanh, chiều chiều có anh phu dạp xe chạy thắp đèn ngoài đường, danh gọi “le
lampiste”. Rồi bắt qua đèn điện có xài than, rốt lại mới có đèn ngày nay, điện
hay néon…
đèn khí đá
Nhà quan viên thì dùng quạt làm bằng vải bố
kaki căng trong khung treo trên trần nhà, có dây rỏ rẻ và sắm chú “bồi” con ngồi
kéo quạt (panca, panka, punka).
Nay xin nói sơ qua về cuộc đời an nhàn của những
năm về trước trong giới Pháp kiều.
Đầu thế kỷ XX, ra khỏi Sài Gòn hai mươi cây số
ngàn (20km) đã là xa xôi lắm. Tha hồ săn bắn; heo rừng, nai, cà tong… Xa vô
chút nữa thì trâu rừng, con min, cọp, voi không thiếu gì. Hoàng tử Henri
d’Orléans dòng dõi Vua Henri IV, Thái Tử xứ Đan Mạch Waldemar và công tước Duc
de Montpensier đua nhau thường năm dứt mùa mưa lối tháng mười ta là có mặt tại
Sài Gòn, lấy sự săn bắn thú dữ làm món tiêu khiển phong lưu. Công tước Duc de
Montpensier xài tiền như nước, mua nhà hàng Continental tặng cho cô nhơn tình
là Bá tước Comtesse de B…
Sài Gòn muốn đi Nam Vang phải mất trọn một tuần
lễ chớ chẳng chơi, vì mỗi tuần chỉ có ba chuyến tàu khứ và hồi. Nếu phải kể ở lại
trên đó bốn mươi tám giờ chờ tàu, toi mất bảy ngày dễ quá, nhưng trên tàu, thú
vui trời nước, đọc sách đánh bài tiêu khiển, duy ban đêm chưa có đèn điện, còn
dùng đèn cầy và đèn dầu hoả, thêm nạn tàu ghé Cù lao Giêng thì đúng giờ ăn cơm
tối, bọ xích và muỗi đen bay vãi vào mặt vào họng và thức ăn.
Hãng tàu chạy sông “Méssageries Fluviales”
sáng lập năm 1883 -1884. Sau đổi là “Compagnie Saigonaise de navigation”, đầu
tiên do Jules Rueff làm chủ sáng tạo. Rueff quen thân với Vua Hoàng Lân
(Norodom). Rueff bán đồng hồ reo, đồng hồ chuông, đồng hồ bỏ túi, cho Norodom
mà dư sức làm giàu. Rueff mướn bọn thuyền chủ (trong Nam gọi Cò Tàu), tuy người
quốc tịch Lang Sa nhưng trả lương chỉ có bốn chục đồng bạc mỗi tháng, tính mỗi
tuần mười đồng. Thế mà bọn nầy đều làm giàu ngang xương, đủ tiền nuôi em út,
còn nuôi thêm ngựa đua, vì tàu chạy đường Sài Gòn qua Bangkok, chuyến đi thì chở
“lậu” súng lục, chuyến về chở “lậu” thuốc phiện, không mau giàu sao phải.
Ông Henri kể lại chuyện một cò tàu chở thuốc
phiện lậu, khi tàu đến gần thương khẩu Sài Gòn thì sai neo thùng thuốc phiện buộc
chùm với chiếc mỏ neo chìm lỉm xuống nước chờ lính đoan xét tàu xong rồi trục vớt
lên. Có một lần nọ, lính đoan biết kế, đón tàu từ hòn Côn Sơn, xuống nằm ỳ dưới
tàu chờ về địa phận Sài Gòn sẽ ra tay lục xét. Vỏ quýt dày, có móng tay nhọn. Dọc
đường, viên cò tàu bơm ngọt, phục rượu Tây đoan say vùi, chờ khi sang tất cả số
đồ lậu thuế qua thuyền nhỏ phi tang đâu đó xong xuôi, khi ấy Tây đoan tỉnh giấc,
chỉ còn nước chạy giấy phúc trình: “trên tàu, xét kỹ càng không một món đồ nào
lậu thuế”!
Năm 1905 đã có vấn đề “nước uống” đem ra bàn
cãi tại hội đồng thành phố. Công ty Nhà Đèn xướng ra thuyết ít tốn kém cho ngân
quỹ là đào thêm giếng lấy nước ngọt ngay tại chỗ. Hãng Balliste có thế lực lớn
lại đề nghị dẫn nước thác Trị An về và như thế đô thành sẽ có dư điện lực do sức
mạnh của nước làm ra, vĩnh viễn không lo khan nước khan hơi điện. Năm 1904, Xã
Tây Cuniac sang Pháp định vay tiền mẫu quốc mười hai mười ba triệu quan gì đó để
thi hành chương trình Balliste. Nhưng Cuniac gặp trở ngại; khi trở về Sài Gòn
thì xin từ chức xã trưởng thành phố, và vấn đề “nước ăn nước uống” cho đến ngày
nay vẫn chưa dứt khoát.
Vấn đề “đổ bác đổ tường” cũng được chú ý đến.
Tuy có lịnh cấm cờ bạc, nhưng cấm lấy chừng, ngày tư ngày tết, các chú hốt me tận
ngoài đường cái, những thương gia đầu tắt mặt tối quanh năm cũng nghỉ xả hơi,
đóng cửa, cầm giấy đỏ có đề bốn chữ “cung hạ tân xuân”, vừa đi thăm bè bạn ba bữa
đầu năm, vừa ghé sòng bài thử thời vận. Nhà hàng “Hôtel de France” đường
Catinat, trong ba ngày Tết, Hoa Kiều mướn chứa me đến hai chục ngàn đồng một
ngày. Dòm vào sòng “đuôi sam” nhiều không thua khăn đóng và khăn quấn đầu rìu.
(Lamagat, trương 135).
Năm 1906 Jean Duclos chở ngựa lớn con, giống A
Rập từ Hà Nội vào cáp độ Trường Đua Sài Gòn, báo hại nhiều nhà thua phá sản.
Qua năm 1912, de Monpezat cũng làm mửng ấy và chủ ngựa Hà Nội vét túi bọn trong
Nam.
Câu Lạc Bộ thể thao “Cerclie Sportf” cũng ra đời
lối năm 1912.
Lão Mézin, với hai bàn tay trắng, qua đây khai
phá ruộng tỉnh Cần Thơ làm nên đồn điền “Domaine de l’Ouest”.
Lão Gressiercòn giỏi hơn nữa, cỡi trâu chạy
đua với ngựa, và khai hoang mở rộng vùng Phú Lộc (Sốc Trăng).
Hai người sống ở ruộng nhiều hơn ở đất Sài
Gòn. Gressier cày sâu cuốc bẫm củi lục làm ăn ròng rã ở đây bốn chục năm dài
không về Pháp quốc chuyến nào.
Lão Vidal, xin thôi làm sĩ quan thuỷ quân, ở
thiệt thọ tại Sài Gòn cưới vợ Việt Nam, tập ăn trầu nhai bỏm bẻm, được tôn làm
đại hương cả làng Phú Nhuận. Khi mãn phần, di ngôn dạy chôn cất theo đạo Phật,
có thầy chùa tụng kinh siêu độ, đám táng dùng nhà vàng và đạo tỳ đòn rồng, đòn
bông khiêng vai (vì thưở ấy chưa có xe tang ô tô) và thêm có hò đưa linh ấm
đám. Tôi nhớ rõ việc nầy vì năm ấy tôi còn làm việc tại trường máy đường Đỗ Hữu
Vị, chủ trường là quan năm Rosel sai tôi dẫn đường viếng tang Vidal, đến nơi thấy
nhà vàng và thầy chùa gõ mõ, ông cật vấn nhiều lần vì tưởng đã lầm nhà.
Lão Fernand Lafonmua đất châu thành và lập
nghiệp tại góc đường Lê Văn Duyệt và Hồ Xuân Hương (Verdun Colombier) gần chùa
Xá Lợi và trường Áo Tím, nay là Nữ Học đường Gia Long; đất ấy Lafon mua với giá
năm cắc bạc (0 đ 50) mỗi thước vuông.
Tên Chà Và bán sữa tươi có một bầy bò thả ăn
rong trên đất của đô thành. Chánh phủ ép phải mua đất trên Tân Sơn Nhứt để lấy
cỏ cho bò ăn, Chà ta khóc ròng và chạy tiền mua; ngày nay Chà cười vì đất “chó ỉa”
một thước vuông một, hai cắc bạc, nay đắt hơn vàng khối.
Tiền bạc trong xứ, khi cần dùng tạm bợ thì phải
vay hỏi nơi Chà Chetty ở xóm Ohier (nay vẫn còn chỗ cũ) tuy cho vay cắt cổ mà
không bạc Chà lấy đâu có vốn làm ăn? Mỗi năm rằm tháng Giêng, Chà bày cộ đèn,
đưa thần Civa (tượng đúc bằng bạc ròng) dạo chơi đường phố, mua bán tấp nập suốt
đêm.
Các quan Lang Sa và nhà giàu thân thế sắm xe
bicyclette, lúc ấy đã biết máy móc là giống gì, thấy xe không dùng ngựa bò mà
chạy ngờ ngờ, đã đặt tên nó là “cái xe máy”. Trước còn bánh đặc, phần đường xá
gồ ghề, mê sức chạy mau mà quên đau… sau có bánh bộng, nhưng xe nổ vỏ thì có lấy
tay mà bụm! Xe máy dầu (motocyclette) là một xa xí phẩm mới có sau nầy.
Khách phong lưu và người có tiền thì đi xe “kiếng”,
tức xe đóng bít bùng có cánh cửa gắn kính cho có ánh sáng, nên gọi như thế. Người
Pháp gọi xe ấy “voiture malabare” vì người cầm cương phần đông là người Mã Lai.
Rồi sau có xe trái bí, hình dáng thanh hơn xe kiếng. Xe trái bí, nhà Dưỡng Lão
Thị Nghè mấy năm về trước, còn thấy dùng để đưa các dì, bà phước đi chợ mua đồ
ăn. Nhà giàu nữa thì dùng xe mây một ngựa (thùng đan bằng mây) hoặc xe song mã
có xà ích (sais) Chà Và cầm cương.
Xe tự động (ô tô) sơ khởi là xe hiệu Peugeot,
Panhard, Delage, muốn chạy phải đốt cho máy nó nóng!!! Mui vải bố có dây da kéo
chằng chịt ra trước ra sau, cửa xe thì không có… Những người có xe ô tô buổi đầu
toàn những cự phú và các Lang Sa sang trọng, trong số có ông Lê Phát An là một.
Năm 1923, xe Chánh phủ chỉ có độ một trăm chiếc ghi, số từ C-1 đến C-100, chiếc
Delage C.100 của Thống Đốc Nam Kỳ là “chiến” nhứt hạng.
Câu hát, câu hò thưở trước
Tiện đây, tưởng nên ghi chép một mớ câu hát
câu hò dính líu chút ít đến nhơn vật và phong cảnh Sài Gòn xưa:
“ Sài Gòn mũi đỏ,
” Gia Định xúp lê,
” Giã hiền thê ở lại lấy chồng,
” Thuyền anh ra Cửa như rồng lên mây “
(Đời trước, ghe thuyền Sài Gòn đều sơn mũi đỏ
cho dễ phân biệt với ghe thuyền Lục Tỉnh. Dường như phong tục sơn mũi thuyền và
khắc tên họ, quê quán chủ thuyền đã có từ thời ông Nguyễn Cư Trinh vào Nam, cốt
để dễ bắt ghe gian hoặc thuyền của bọn cướp (xem Sãi Vãi do Lê Ngọc Trụ và Phạm
Văn Luật sao lục và chú thích).
Gia Định xúp lê: Ghe anh lui đến Gia Định, như
cởi mở, nếu là tàu thì đã thổi còi vang dội. Hát câu nầy, anh cho gái hiểu một
đi không về!
“Mẹ
đi Chợ Quán, Chợ Cầu,
“Mua cau Chợ Vải, mua trầu Chợ Dinh“.
Hay
là:
“… Mua
vôi Chợ Quán, Chợ Cầu,
“Mua Cau Nam Phổ, mua trầu Chợ Dinh“
(Câu
hát vùng Huế, nhập Gia Định đời Tây Sơn)
“Chị
Hươu đi chợ Đồng Nai,
“Bước qua Bến Ngé, ngồi nhai thịt bò“
(Câu
hát đối bí hiểm, chưa có câu đáp lại. Trong câu có đủ: hươu, nai, nghé, bò).
“Bao
giờ cạn lạch Đồng Nai,
Bước qua Bến Nghé, ngồi nhai thịt bò“
(Cặp
nhơn tình nầy, một người gốc gác ở Huế, một người trong Nam).
“Nhà
Bè nước chảy phân hai,
“Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về“.
(Câu hát tuyên truyền cuộc di dân vào Nam.
Xưa, một phú ông đã có công sáng lập nơi đây một nhà cứu tế và bán buôn, cất
trên Bè, trên sàn, sau nhóm đông thành chợ, gọi Chợ Nhà Bè. Bấy lâu, tên ông là
Thủ Huồng, nghe làm vậy nhưng không biết chữ viết ra sao, nay đọc Gia Định vịnh,
thấy ông Trương Vĩnh Ký ghi là Võ Thủ Hoằng mới rõ).
“Rồng
chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai,
“Nước sông trong sao lại chảy hoài?
“Thương người xứ lạ lạc loài tới đây“.
(Câu
hát gợi tình, lời trung thực thuộc loại chánh phong).
“Chợ
Sài Gòn cẩn đá, Chợ Rạch Giá cẩn xi măng,
“Giã em ở lại vuông tròn, anh về xứ sở, không còn ra vô“.
(Hát
xong câu nầy, là cút biệt về Rạch Giá, ô hô!)
“Cúc
mọc bờ ao, kêu bằng cúc thuỷ,
“Chợ Sài Gòn xa, Chợ Mỹ cũng xa,
“Viết thơ thăm hết nội nhà,
“Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em! “
(Câu
hát huê tình, điệu chánh phong).
“Mười
giờ tàu lại Bến Thành,
“Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao”
(Mười giờ có một chuyến xe lửa từ Mỹ Tho lên,
đỗ ga “Bến Thành” thì kéo còi…)
“Anh
đi ghe cá trảng lườn,
“Ở trên Gia Định, xuống vườn thăm em“
(Ghe
trảng lườn là loại thuyền trẹt, cạn lòng).
“Xay
lúa giã gạo Đồng Nai,
“Gạo thóc về ngài, tấm cám về tôi “.
“Trầu Sài Gòn xé ra nửa tá,
“Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi,
“Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
“Hay là anh quyết ở đời với em?”
(Minh
Tâm)
“Anh
ngồi quạt quán Bến Thành,
“Nghe em có chốn, anh đàng quăng om (om trà Huế)
“Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
“Hành khách chẳng có, đá om quăng lò “
(Minh Tâm)
“Xe
mui chiều thả xanh quanh,
“Đôi vòng Bà Chiểu thích tình dạo chơi “.
(Thú phong lưu thưở trước, đến 1914 sấp sau mới
có ô tô).
Kết luận
Sài Gòn là đất hưng vương, căn bổn phát tích
Nguyễn Triều. Pháp chiếm năm 1859. Pháp bị lật năm 1945. Tiếp theo là cuộc trưởng
thành, cách mạng, độc lập.
Lịch sử Sài Gòn có lắm đoạn vẻ vang:
Không có bàn tay người Việt tô điểm, không thịt
xương người Việt làm nồng cốt, không máu huyết người Việt làm xi mon, chưa chắc
Sài Gòn có bộ mặt mới xinh như ngày nay.
Đứng giữa các mối đường, sự giao thông thuận
tiện;
Ngày nay có sân bay rộng lớn khang trang, Sài
Gòn nối liền với hoàn cầu trong nháy mắt. Như một viên bảo ngọc, càng ngày càng
quý, Sài Gòn hội đủ điều kiện để trở thành một đô thị tối tân.
Xuân Mậu Tuất (1958) – Xuân Canh Tý (1960)
Vương Hồng Sển
Trích: “Sài Gòn Năm Xưa”


No comments:
Post a Comment