Thursday, April 12, 2018

Quốc Sỹ Với Con Thuyền Ma Và Gánh Xiếc - Không rõ tên người viết


QUỐC – SỸ với CON THUYỀN MA và GÁNH XIẾC

 

Những trang văn xuôi đầu tiên của Doãn Quốc Sỹ in trên tuần báo Người Việt được ký là Quốc Sỹ; trong một bài tiểu luận bàn về trường đại học văn khoa, ông ký tắt: D.Q.S. Trên báo Người Việt, Quốc Sỹ cho in hai truyện ngắn Con thuyền ma, Gánh xiếc và truyện dài Đoàn Người Hóa Khỉ. Trước hết chúng ta đọc

 
Con thuyền ma:

 
 
 

“Xưa có một đoàn người hẹn cùng gặp nhau ở miền biên giới nọ. Họ đều là những tráng sỹ ưa phiêu lưu. Chuyến này họ trù tính đi lâu để thăm nhiều miền xa lạ. Sau mấy tháng vượt đèo cao rừng rậm, họ tới một miền duyên hải núi non lởm chởm có những thành đá cao vời vợi hướng ra biển. Lúc đó trời vừa tối, họ nghe thấy tiếng sóng rầm rộ vỗ vào chân núi và tiếng loài chim đêm vang lên rõ rệt. Không khí đượm một vẻ ma quái hoang vu. 

Họ theo một con đường dốc thoai thoải đưa xuống bờ biển và thấy đằng xa có ánh đèn. Họ tiến lại. Thì ra đấy là một chiếc thuyền khá lớn chỉ có một viên thuyền trưởng mà không có thủy thủ. Viên thuyền trưởng nói có thể chở mọi người đi xem Đảo Cực Lạc gần đó. 

Mọi người hỏi Đảo Cưc Lạc như thế nào. Viên thuyền trưởng đáp đảo này bốn mùa hoa cỏ tốt tươi, cây cối sầm uất, có đủ các thứ lúa chín vàng, gặt đi rồi nó lại mọc. 

Mọi người vui vẻ buộc ngựa lại bờ biển, bên một hốc núi , rồi lên thuyền. Họ định đến thăm đảo rồi sẽ quay về xứ sở đón những người thân cùng đến hưởng hoa thơm, quả lạ và gặt lúa vàng ở đấy. 

Viên thuyền trưởng tức khắc đẩy thuyền ra khỏi bờ. Vì trên thuyền không có thủy thủ nên viên thuyền trưởng nhờ mọi người cùng trèo giúp. Ai nấy vui vẻ vào việc mà không biết đã lên nhầm một con thuyền ma (...)

Trời không một vị sao. Biển mênh mông ánh nước đen ngòm (...) Chợt một người trong bọn hỏi viên thuyền trưởng tại sao trên trời không có lấy một vị sao. Viên thuyền trưởng đáp là đường đi tới Đảo Cực Lạc không có sao (...) Người khác lên tiếng hỏi: trên trời không có sao thì làm thế nào mà nhận được phương hướng? Viên thuyền trưởng đáp chính hắn là phương hướng rồi đừng nên nghi ngại gì cả (...) Chợt thuyền chòng chành, cả khối đen mênh mông xung quanh chuyển động dữ dội: bão biển. Thuyền sô lên cao, nhào xuống thấp, nghiêng ngả kinh hồn, vấp phải những tảng đá ngầm. Có nhiều chỗ rập nát và thủng. Trong khi chống đỡ với cuồng phong đã có mấy người tử nạn. Viên thuyền trưởng bảo mọi người khiêng những xác đó đặt vào chỗ rập nát và thủng của thuyền. Hắn niệm chú tự nhiên xác chết rữa ra thành nước dính vào thuyền và lấp kín những chỗ hư đó (...) Cơn bão biển này vừa qua, cơn khác lại tới. Sau đó một thời gian thuyền đã thủng khắp nơi và có nghĩa là khắp nơi đều có gắn xác người (...)

Trời không một vị sao. Biển càng mênh mông, ánh nước càng đen ngòm sau mỗi cơn bão. Con thuyền vẫn di chuyển đều do sức chèo của một số nhỏ những người ưa phiêu lưu còn sống sót.”

Trên đây là trích tóm tắt truyện Con thuyền ma, sau này truyện được in trong tập Sợ lửa mà tác giả ghi là truyện cổ tích (1956).

 

Trong Người Việt số 4 , Quốc Sỹ cho in truyện Gánh xiếc, đây không phải truyện cổ tích nhưng vẫn là một truyện ẩn dụ. Nhân vật tôi kể lại một chuyến đi:

“Tôi đến kinh thành New Delhi vào mùa thu năm 1952. Tại thủ đô Ấn ngày đó đi đâu cũng thấy người ta bàn tán đến sáng kiến của nhà điêu khắc Karmarkar sửa soạn dựng một pho tượng bán thân Thánh Gandhi (...) Trên đường phố tôi gặp những người Ấn vận âu phục rất lịch sự, chân đi giày đánh bóng loáng nhưng đầu có quấn khăn. Chợt tiếng thanh la kèm theo tiếng hò hét từ xa vọng lại. Anh bạn tôi nói: 

- Đằng kia có gánh xiếc.

Tôi hỏi:

- Anh ở đây đã lâu hẳn cũng có lần anh xem những trò xiếc đó.

Anh bạn gật gù: Nhiều lần anh ạ.

- Tôi có cảm tưởng đấy cũng tương tự những gánh xiếc bán thuốc cao ở nước nhà. 

Nghe tôi nói vậy, anh bạn vội lắc đầu cải chính:

- Không đâu, những trò quỷ thuật ở đây kỳ diệu hơn nhiều.

Tôi dừng lại nhìn về phía có gánh xiếc:

- Hay là chúng ta vào xem một lát! (...)

Anh bạn tôi lên tới chỗ bán vé. Rồi một lát sau chúng tôi cùng lớp khán giả mới nối đuôi nhau vào xem (...) Khán giả khá đông, ngồi theo hình vòng cung trên các ghế xếp thành từng bực cao dần. Và cuộc diễn bắt đầu. 

Mười năm phút đầu là những trò nhào lộn rất công phu (...) Sau ba tiếng vỗ tay của ông già hai cha con thôi nhào lộn chạy vào sau màn phông. Ông già lại ra đứng chính giữa và giới thiệu một thôi (...) Các khán giả đều thấy hoa mắt. Tôi có cảm giác như vừa lạc vào khu vườn vũ trụ, quanh mình là muôn vàn những hoa tinh tú nở hào quang. 

Anh bạn tôi ghé lại gần giảng qua những lời giới thiệu của ông già: Ông ta nói sắp đến trò Chính: Hiếu tử đánh lại thiên thần.

Ông ta đứng nghiêm trang và vỗ tay ba cái. Người cha ở sau màn phông chạy ra đứng bên phải. Ông ta vỗ tay ba cái. Người con ở sau màn phông phóng chạy ra đứng bên trái. Ông hét lên một tiếng (...)Tiếng gầm thét càng dữ dội thì các vì sao càng như nhảy múa rồi tận cùng có tiếng hú dài thê thảm. Một cẳng người từ trên cao ném xuống, rồi một cẳng nữa. Một cánh tay người từ trên cao ném xuống, rồi một cánh tay nữa. Rồi cả thân người và sau cùng là cái đầu của người cha máu me đầm đìa (...) Kế tiếp là tiếng gầm thét dữ dội của thiên thần và tiếng hú căm hờn của người con (...) Chợt người con từ đâu xuất hiện khoác một cái áo vô cùng lộng lẫy. Ý hẳn là vừa cướp được của thiên thần. Hắn cúi xuống thu nhặt đầu, mình, chân tay của cha ghép lại cho đúng vị trí hình người rồi lấy chiếc áo thiên thần phủ lên. Hắn nhảy múa quanh thi thể hát lên một bài hát dạo. Bất chợt hắn cúi xuống lật tấm áo lên. Người cha bỗng ngồi nhỏm dậy, vẻ mặt tươi cười như không. Đầu, mình, chân, tay đã liền lại. Hai cha con nắm tay nhau cúi chào khán giả.”

Đã trải qua những giây phút kinh hoàng vì quỷ thuật trong rạp xiếc, nhân vật tôi nghi hoặc với trò: Hiếu tử đánh bại thiên thần rồi tình cờ phát hiện ra người điều khiển trò quỷ thuật bằng cách thôi miên người xem . Cho nên khi trở lại rạp xiếc bằng sự tỉnh táo của mình, nhân vật tôi đã khiến cho người thôi miên thất bại . Cảnh người cha leo lên , người con leo lên thực ra chỉ là chú khỉ, con chuột ... Sự thật được phơi bày và lan truyền khiến cho gánh xiếc bị tẩy chay ở bất cứ đâu khi gánh xiếc tới. Ở những dòng gần cuối truyện, tác giả viết:

“Đó cũng là sự tích một gánh xiếc. Có điều khác là gánh xiếc ở Ấn Độ đến rồi phải đi, ở Bắc Việt hiện nay, trái lại, gánh xiếc đến chính dân chúng phải đi. Gánh xiếc chính quyền có khác (...)”

Truyện ngắn Gánh xiếc được xuất bản thành sách năm 1958 cùng với nhiều truyện ngắn khác.

 
Ngoài hai truyện ngắn Con Thuyền Ma và Gánh Xiếc. Quốc Sỹ còn cho in truyện dài: Đoàn Người Hóa Khỉ (IV) từ Người Việt số 2. Đây là một sáng tác dưới dạng cổ tích lịch sử, có bóng dáng của lịch sử Việt. Báo Người Việt đã giới thiệu Quốc Sỹ như sau:

“Nghe Quốc Sỹ kể chuyện, ta nhớ đến người nông dân Việt, bình dị nhưng cởi mở, ta thấy thét lên lời ca chính khí của người chiến sỹ Việt bất khuất, nhưng ta cũng say sưa với câu chuyện cổ tích của người bà Việt mái tóc bạc phơ kĩu kịt đưa võng ru cháu, hay trầm lặng trong chén trà của sỹ phu Việt suy ngẫm về đạo sống. Quốc Sỹ không thuộc về văn phái nào cả. Quốc Sỹ là ngọn bút của dân tộc.”

 
Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 03-02-1923 tại xã Hạ Yên Quyết, Hà-Nội. Từng dạy học tại trường Nguyễn Khuyến (Nam Định -1951-1952) Chu Văn An (1952-1953). Năm 1954 di cư vào Nam dạy ở trường Trần Lục, làm hiệu trưởng trường trung học Hà Tiên, sau đó dạy trường Sư Phạm Sài gòn, Đại học Vạn Hạnh, Đại học Văn khoa. Ông đã cộng tác với các báo: Lửa Việt, Dân Chủ, Người Việt, Tân Phong, Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa ... Ông đã cho in nhiều tác phẩm như: Sợ Lửa (truyện cổ tích -1956), U Hoài (tập truyện -1957), Gánh Xiếc (tập truyện -1958), Dòng sông định mệnh (truyện dài-1959), Khu rừng lau (gồm 4 quyển )... Ngoài những công trình sáng tác ông còn là tác giả nhiều sách biên khảo , trong đó có bộ Tuyển tập văn chương nhi đồng, ông chủ trương nhà xuất bản Sáng Tạo. Sau năm 1975, Doãn Quốc Sỹ bị bắt đi tù cải tạo 14 năm. Năm 1995 ông định cư tại Hoa Kỳ. Ở hải ngoại ông cho in: Vái Tứ Phương, Dấu Chân Cát Xóa, Mình lại soi mình. Về tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ, những ghi chép trên đây là chưa đầy đủ.

Trong cuốn Cát bụi chân ai hồi ký của Tô Hoài viết năm 1990, bản in lần thứ 2 năm 1993 của nhà xuất bản Hội Nhà Văn (Hà-Nội) có một đoạn viết về Doãn Quốc Sỹ như sau:

“Tôi cũng thường đọc trên đài “ thư Hà-Nội” gửi nhà văn Quan Sơn ở Sàigòn. Chẳng mấy ai biết bút hiệu ấy của Doãn Quốc Sỹ ngày trước trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Doãn Quốc Sỹ người Cầu Giấy, gần làng tôi. Chúng tôi quen nhau khi mới cầm bút. Một trong những truyện ngắn đầu tiên của Doãn Quốc Sỹ, Đôi Mắt Của Hiền, cô Hiền ấy, con gái đầu lòng bác Tú Mỡ. Bức thư tình đăng báo mà rồi nên nhân duyên. Doãn Quốc Sỹ theo nhà vợ ra vùng tự do ở Bắc Giang ít lâu rồi vào Hà-Nội, rồi di cư vào Nam. Báo chí và các nhà xuất bản ở Sài gòn in sáng tác của Doãn Quốc Sỹ, lại biết Sỹ dạy học ở Hà Tiên, được tu nghiệp ở Mỹ mấy năm. Chẳng biết cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức còm ở một làng nghề dệt nghề giấy ngoại ô này không, tôi tin là không, thế mà sao Doãn Quốc Sỹ viết chửi (20) cộng sản hăng thế. Chắc chẳng khi nào Doãn Quốc Sỹ nghe bài của tôi để biết đến những tiếng nói vùng quê của anh.(trang 229 C.B.C.A.).

Không rõ tên người viết
304Đen - Llttm

No comments: