Đá
Nát Vàng Phai
Thẹn mình đá nát vàng phai (Kiều)
1. Đầu năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các
thành phần “ác ôn, có nợ máu” gồm An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị
(CTCT), Cảnh Sát, Tuyên Úy, có cả Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận –toàn là hàng
độc, dữ dằn dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai
khoang hầm tàu chở than, nguyên là của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông
Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người
nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến
được cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang. Nước uống và lương khô được thòng dây
xuống, y như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi. Hai ngày sau
cập bến Hải Phòng, ở đó một đêm. Sáng sớm hôm sau, xe lửa và molotova bít bùng
dàn chào sẵn để rước về các vùng biên giới, như Yên Bái, Lao Kay, Quảng Ninh…
Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng kín, khiến hai
ông trung tá chết ngộp, xác vứt xuống bên đường. Ngồi xe hơi thì bị trẻ con ném
đá, và bị những bà già Bắc Kỳ răng đen mã tấu tốc váy, xỉa xói, chửi rủa tục
tằn, với sự làm ngơ đồng lõa của lũ cán bộ: “Giết hết bọn ngụy chúng mày! Chúng
mày hiếp dâm, cắt cổ người, cướp của, ăn thịt trẻ con. Đồ ngụy chuyên ăn cứt
Mỹ…”.
Hoàng Liên Sơn với rặng Fansipan trùng điệp. Những ngày vào rừng hoặc
lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử
thấy tê buốt – như môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng
ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ mục. Trên đường lao động, Nguyễn
gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà được “gom bi”
đầy đủ. Nhìn nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ:
“Các anh có mà chạy đằng giời!”. Thỉnh thoảng lên núi, Nguyễn và đồng tổ đội
gặp một nhóm Biệt Kích, bị bắt từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đang lao động
tự giác, không có vệ binh canh giữ. Họ nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc
đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng: “ĐM, các
anh làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?”. Cả lũ xấu hổ,
im lặng, không biết trả lời sao, chỉ nghe lòng xót xa bởi câu trách móc không
sai chút nào. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn lóng cóng không buộc chặt nổi
bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc
và bánh in khô Trung Cộng.
Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn
được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão –còn gọi là đội “sứt cán gãy
gọng.” Vì còn trẻ và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân,
ngày ngày phải hốt đủ mười chuyến phân bắc, tức phân người, “có chất lượng”
giao cho tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước
tưới rau. Lúc đầu thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền mất đi cảm
giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là gì nữa. Hết phân bắc đến phân chuồng
(trâu bò), cũng tởm không kém, rồi phân xanh (lá ngâm mục).
Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh lắm. Hệ thống ăng ten chưa được
thiết lập quy mô. Trong đội Rau Xanh có ông đại úy Cảnh Sát già gân Hoàng Bá
Linh. Ông Linh là người Quảng Bình, hay Quảng Trị, trực tánh, ưa kể chuyện tiếu
lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ
súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn Chiến Tranh
Chính Trị ngụy” như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ
đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già
Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và
thằng Mao Xếnh Xáng… Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là
chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy… Thật
là mất dạy hết sức!” v.v… Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn
như ri, như ri”, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải
tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau
thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông
im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì.
Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Ra khỏi
phòng biệt giam, ông tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng
mô”.
Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, ở chung với tù hình sự,
loại “đầu gấu” chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút
gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất
Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói
líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông thổi kèn mở đường, đàn bà
gồng gánh theo sau. Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng,
vài nhà văn quân đội như, Nguyễn còn nhớ, Thảo Trường, Văn Quang và Phan Lạc
Phúc. Có nhị vị cựu và đương kim Đại Tá Linh Mục Tuyên Úy Lê Trung Thịnh và
Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung Tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng phi
đoàn trực thăng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo
jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung Tá Vũ Hoài Đức, chỉ
huy phó trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, người hiền lành, đạo đức y như
Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của
cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hình như là Lê Tử Hùng (?). Ai nấy thiếu ăn, xác
xơ, bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: Chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt
đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là
trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.
2. Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội
vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng
Vương. Hùng Vương ở đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh
niên hắc ám của các cai tù, và những tên Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm
khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi
là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông
Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà “vợ ngụy” xem như chặng đường
thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe
đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu
niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp – có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa
nhất, tuốt sâu trong núi.
Tại Vĩnh Phú, có anh bạn cùng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà
Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, đại úy phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho
dụng cụ lao động, cũng nhàn. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối
đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch
sự hỏi:
– Xin cán bộ cho biết quý danh.
Thằng nọ không hiểu “quý danh”, há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi
đột nhiên sừng sộ:
– Anh vi phạm lội quy. Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử?
Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch
giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình:
– Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng…
Nhung không phải là trường hợp duy nhất. Bọn cai tù Việt Cộng là chúa
nghi ngờ, nhạy cảm và mặc cảm. Một câu nói vô tình, vô tội, đùa vui cũng bị
“nâng cao quan điểm” và những phát biểu viên linh tinh đều bị gọi đi “làm việc”
tận tình. Một thiếu úy trẻ, một bữa trưa Chúa Nhật nghỉ lao động, vừa phơi
chiếu bắt rệp vừa cao hứng hát bài “Giết Người Trong Mộng” và gào lên thống
thiết, giết người đi, giết người đi, bị ăng ten báo cáo và tên quản giáo xuống
điều tra, quy tội phản động, âm mưu sát hại cách mạng, và xách đi biệt giam một
tuần lễ. Hay một anh khác, không hiểu sao, một hôm lớn tiếng chửi đổng: “ĐM
thằng Mỹ-Thiệu”, cũng bị buộc là “tư tưởng còn lấn cấn, anh tức giận bọn
Mỹ-Thiệu là vì chúng nó bỏ rơi anh, chứ gì, đúng không?” Hay các linh mục tuyên
úy trồng cây cột, đóng với một thanh gỗ ngang, để căng dây phơi quần áo, cũng
bị kết tội cố tình dựng cây thánh giá, và bắt tháo xuống và viết tờ kiểm điểm.
Ở trại mới, Nguyễn “được” chỉ định về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một
thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để luân phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước bùn
đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy ghê rợn – làm chàng nhớ
những đầm lầy cũng kinh khiếp dưới địa ngục mà thi hào Ý Dante Alighieri phải
vượt qua với Virgile, trong Inferno. Ba hôm sau, một số đội viên – có Ðại Úy
Cảnh Sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ Sơn La – lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày
là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân, không bao giờ mọc lại
được nữa. Phải mất thêm vài mạng, đội mới có lệnh “giải thể”.
Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng
Liên Sơn, lại vào tổ phân, lần này giao cho thợ bón kiêm tưới viên là phi công
Air Vietnam Trí (Nguyễn Hữu?), trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay
đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng
hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ
giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài.
Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi
lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng “bò lục” (tiếng lóng chỉ đại
tá) để thăm Ðại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường
Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt – nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm
trong chức vụ trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và sĩ quan phụ khảo cho đến ngày tan
hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù
sáng chế để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh
rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói
lớn:
– Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?
Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi nói, giọng xúc động:
– Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào, có bệnh hoạn gì không? Tôi
biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.
Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng
phai và đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng,
thầm gọi tên một thời yêu thương và thù hận tưởng đã chết theo cùng với mùa
xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn.
Như mới hôm qua…
Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nhìn từ một góc đường
Lê Văn Duyệt, uất hận và nước mắt lưng tròng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng
quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng,
kêu gọi nối vòng tay lớn tay nhỏ, và chạy tới chạy lui dò la tin tức người
thân, bạn bè ai còn ai thoát, tôi tìm được địa chỉ của ông và đạp xe đến thăm
cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự, bất ngờ gặp lại
trên đường. Phu nhân và cô con gái, vì quen mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp tôi không e
dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng đan.
Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch
sự cố hữu. Chúng tôi không nói gì nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có
nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, tôi bị hối hận dày
vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe lời cô em tiếp viên đưa gia
đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, và sau đó, chuyến Galaxy của một viên
phi công Mỹ bất ngờ gặp em tại phi trường, và có cảm tình với em. Khiến tất cả
đành phải ở lại, dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào
tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ tôi, nay
trở mặt, gán lên đầu ông bà đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, tôi không biết ông
đang tiếc gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:
– Không thể ngờ nhanh như thế!
Ðâu phải mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, viên tướng thiếu
tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội và bọn “hàng thần lơ láo” tại Dinh
Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên
đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là Hiệp Định Paris quái gở
bán đứng miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại,
nhưng thực chất chỉ là một anh trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa
tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng
hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào (di
cư Tân Sa Châu), vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được
hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế! Tôi chỉ biết gật đầu, đồng ý với ông.
Cuối cùng, tôi cất tiếng hỏi:
– Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?
Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:
– Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận
những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.
Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, tôi hiểu như thế qua những
lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời tôi nghe quen từ đâu rồi bỗng mang một
ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đã theo tôi suốt
tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm
lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong Terre des hommes
của Saint-Exupéry học lúc trẻ, đã khích lệ, vực tôi đứng dậy để tiếp tục sống còn.
Tôi cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, khẽ nói:
– Có một điều đại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ không
bao giờ quên đại tá và những gì đại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.
Và cho riêng tôi. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn
ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với đời quân ngũ không chọn lựa.
Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm cao độ –quyết
ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù nghe nói ông có một người con rể
là đại tá không quân Mỹ và đủ phương tiện để tẩu thoát một mình như đám tướng
tá tham sinh úy tử kia đã tranh nhau đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả
vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu Đoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị, đường Phan
Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại Học Chiến Tranh
Chính Trị, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa
tiếp tục chiến đấu và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực
trước mệnh nước. Tôi không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi,
thật buồn bã của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng:
– Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!
Hơn hai năm phục vụ trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, không biết bởi
chủ quan chăng mà tôi có cảm tưởng được ông biệt đãi. Cả Alain Bichet, Giáo Sư
Lycée Yersin, mà tôi giới thiệu như một người bạn quý, cũng được ông dành cho
cảm tình nồng hậu, và ngược lại. Ngoài ra, ông chẳng những chấp thuận mà còn
khuyến khích tôi dạy vài lớp Pháp Văn tại Viện Ðại Học Ðà Lạt do lời mời của
phó khoa trưởng Văn Khoa, Tiến Sĩ Sử Nguyễn Hồng Giáp – một bạn học cũ – mới từ
Paris về, và sau này, qua trung gian tôi, nhận dạy một lớp cho trường Chiến
Tranh Chính Trị. Rồi đến mùa văn hóa tôi được ông mời dự tiệc với các giáo sư
tại tư gia và thỉnh thoảng nhờ đưa đón họ bằng chíếc Peugeot 203 bụi đời của
tôi. Khi Giáo Sư Xã Hội Học Phạm Thị Tự nghỉ dạy, ông bổ nhiệm tôi thay bà, bắt
đầu năm cuối của khóa 4. Những sự việc trên, tôi xem như vinh dự, nếu không nói
đặc ân, nhận được từ Ðại Tá Quỳnh, dù tôi biết ông đối xử công bằng, tử tế, dễ
thương với tất cả mọi người, không riêng ai… Và một chuyện, rất cá nhân, tôi
còn nhớ mãi.
Hè 1974, trường mở cuộc thi tuyển khóa 6. Tôi được cử làm trưởng Trung
Tâm Nha Trang. Các bài thi được mang từ các trung tâm về trường để các sĩ quan
Văn Hóa Vụ chấm. Mẹ tôi gửi gấm con bà xui gia, tức em chồng của một cô em tôi,
Thể Trân, kèm theo nửa mảnh giấy nháp do anh ta viết để tôi thuộc lòng nét chữ.
Tôi “dạ” cho qua chuyện, vì biết trước sẽ chẳng làm gì cả. Xưa nay tôi vốn ghét
việc ăn gian với chữ nghĩa, nhất là “quay phim” trong trường thi, hoặc cuỗm bài
người khác, xào nấu lại thành của mình, để in báo hay đọc trên đài phát thanh,
như một số “văn sĩ” hải ngoại đang làm. Kết quả, con bà xui gia rớt, tôi đoán
thế, vì không thấy tên trên bảng. Mẹ và em gái tôi lúc đó có mặt tại Ðà Lạt, ở
nhà tôi, chắc cũng biết, nhưng không nói năng gì. Hôm sau, Ðại Tá Quỳnh cho gọi
tôi lên. Ông đưa tôi xem ba bài Pháp Văn rọc phách, không đề tên, đều bị hai con
số không to tướng. Và nhỏ nhẹ bảo:
– Mẹ và em của đại úy sáng nay có đến gặp tôi, xin vớt một người bà con
được đỗ kỳ này. Tôi xem lại điểm thì thấy anh ấy và hai người nữa bị loại vì
bài Pháp Văn. Ðại úy chấm rất đúng, vì họ trả lời kém thật. Tuy nhiên, đại úy
xem có thể nâng điểm lên cho thân nhân của đại úy, và vì anh này, cho hai người
kia nữa được đỗ không?
Sự việc quá bất ngờ, tôi chưa biết trả lời sao, thì ông vội tiếp, vẫn
nhỏ nhẹ:
– Nhưng điều ấy cũng tùy đại úy thôi. Tôi không có quyền gì.
Suy nghĩ giây lâu, tôi mới lên tiếng hỏi:
– Ðại tá thấy họ cần bao nhiêu điểm nữa?
Ông nói từ 3 đến 4. Tôi bèn sửa, và ký tên trước mặt ông. Sự tế nhị và
lòng độ lượng của Ðại Tá Quỳnh làm mẹ và em tôi cảm phục, hân hoan. Riêng tôi
thầm cám ơn ông đã khéo léo giải quyết mọi chuyện êm đẹp, nếu không chắc phen
này tôi “khó sống” với mẹ, bà xui gia, em gái. Tại bến xe đi Nha Trang, khi hôn
từ giã tôi, Thể Trân nói nhỏ vào tai:
– May phước còn có ông đại tá chỉ huy trưởng của anh… Anh lý tưởng vừa
chứ. Mẹ giận anh lắm đó, nói sẽ cúp viện trợ cho anh… Anh liệu lời xin lỗi mẹ
đi!
… Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi trình diện “cải tạo” ở
một nơi nào đó. Tôi bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Ðại
Học Chiến Tranh Chính Trị, trong số có người bạn thân, Đại Úy Đỗ Huy Hoàng, chủ
bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, tôi mò sang đội
của Hoàng, hoặc Hoàng sang tôi, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức.
Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm
giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao bay
xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có
Thượng Đế nghe đủ những lời ta thán, chửi thề vu vơ. Trong câu chuyện, chúng
tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở
dài, ngán ngẩm. Tôi còn gượng chọc Hoàng:
– Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ hết!
Tại Long Giao, tôi ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng
bệnh xá trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, và một nhóm quân y. Cả tổ, vì tự
ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau
này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực
bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với tôi về thời cuộc, và
lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:
– Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!
Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá Văn Hóa Vụ trưởng của trường. Những
lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc đầu nói, giọng
Quảng lai Huế rất “trademark” của ông:
– Cháng gướm (chán gớm)!
Trong câu chuyện, anh em thường hỏi nhau về Ðại tá Chỉ huy trưởng. Không
ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc
trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, tôi khổ tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh
mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng
khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng Sinh giá buốt
và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng
con phố chìm trong sương mờ che khuất đường về…
Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon.
Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng
thấy đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung
trời yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn
thơm hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại Tá Quỳnh
uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn
đâu! Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư?
Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to
bằng mực tím. Thấy không ai để ý, Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:
– Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?
Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm mới nghe lọt hết. Và trả
lời nhanh, chắc ngại bọn ăng ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:
– Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Ðiều quan trọng là
anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi
lời thăm!
Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:
– Bác được thư gia đình thường chứ ạ?
Ðại Tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:
– Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các anh đại tá.
Chàng phản pháo liền:
– Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!
Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:
– Tôi ở trong Ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa “yêu cầu”)
anh chấm dứt quan hệ linh tinh.
Chàng quay sang Ðại Tá Quỳnh:
– Thôi xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe, bình an trong năm mới.
Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Ðại Tá Quỳnh
được một tháng thì hai đội bò lục – đội trưởng là Lê Ðình Luân và Dương Hiếu
Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy
mà bọn Công An đặc biệt căm thù.
Rồi một hôm, mẹ tôi lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được
phép, sau năm năm chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang
ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe
trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói
cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo.
Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực tôi, như lúc nhỏ tôi từ Sài Gòn về
quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Mẹ bạc gần nửa mái đầu, da
sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi “mệt nghỉ”
rồi lo tìm đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông
con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái
út bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Chưa đứa nào thoát được, mẹ tiếp
lời, trừ Thể Trân ra riêng, vì cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút.
Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng tiếp, dù thôi trang điểm.
Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố
hữu, khiến tôi ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không
phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong
những vở kịch Hy Lạp cổ. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, phụ
họa:
– Nhà mình bị tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở
thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống thay Martel.
Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân đến được Mã Lai với chồng
con. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả trứng vịt lộn trong kỳ
thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và ông Ðại tá chỉ huy trưởng hiền từ của
anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn
bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, cầu
khẩn, lúc nào cũng hào hùng, kiêu hãnh, giống như con chó sói bị thương trong bài
“La mort du loup” của Vigny mình học năm nào đó… Anh nhớ không, hồi nhỏ, một
lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị
chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại còn bị
ba mắng cho nữa…
Tôi lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và đổi
đề tài:
– Em đã đi thăm Kha chưa? Anh không biết Kha hiện ở trại nào.
Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới tôi hai lớp ở
Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không
đi.
Nghe tôi hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn ra sân. Bầu trời thấp,
đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà
trống trải, không cửa, lạnh từng cơn. Em thì thầm:
– Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng
tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều… Em sẽ chờ anh ấy, bao
lâu cũng được.
Tôi quay sang mẹ, bùi ngùi nói:
-Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa
gia đình…
Mẹ ngắt lời:
– Cả nước đều lầm, đâu phải riêng con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến
nữa.
Bội Trân tiếp:
– Nhưng có thế này em mới được về vườn, ở hẳn với ba mẹ chứ! Em vẫn
thương anh và hãnh diện vì anh.
Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin tôi chờ mà
ngại không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành
ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay tôi, siết chặt, và khẽ nói:
– Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!
Tự dưng tôi buột miệng, không chút mỉa mai:
– Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!
Tôi tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói
một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự thật quá lâu, từ năm
năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy
tháng đã nhận được thư vợ xin anh cho phép “bước thêm một bước nữa” và ký vào
tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời tôi không quên được
giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: “Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng
khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh.” Tôi không được như anh ta.
Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng.
Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và dòng tóc buông
lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ
Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài
“Le jour où la pluie viendra… Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim
cương cho tình ta…” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em trong quán
L’eau Vive và bản sonate 23 của Beethoven, “Appassionata”, trên phím dương cầm
thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người tình
về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những
chân bước tung tăng qua những đồi thông dưới mưa, từng hạt long lanh như kim
cương. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà.
Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Tôi nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và
cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân không nói. Ðâu
phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.
Em tiếp, giọng trầm buồn:
Em tiếp, giọng trầm buồn:
– Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Ðến gặp em, lần đầu tiên
sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một
lời gì về anh. Khi chia tay, chị ta nhờ em trao anh những phong chocolat
Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí,
nhưng dĩ nhiên em không nhận gì hết… Em biết tính anh quá mà!
Tôi nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo ý nghĩ riêng…
Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả
chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn tôi từ biệt, lợi dụng tiếng ồn ào,
Bội Trân nói nhỏ, một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:
– Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y
như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt
Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang
quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu
nguyện nhiều xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Em
thương anh.
3. Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có
nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, heo, và cán bộ, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu
chàng phụ tá cho Lưu Ninh, thiếu tá, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh
qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, trung
tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong
những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn
hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo
Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội,
nằm cạnh chàng, có Ðại Đức Nguyễn Long, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp
dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi
hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe,
và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:
– Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!
Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một
anh gốc Hố Nai xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng
– mọc đầy bên vệ đường. Mỗi người được chia hai miếng bằng ngón chân cái. Ai
cũng “hồ hởi” ăn, trừ Ðại Đức Long. Ông đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù
quanh năm ai cũng thiếu chất thịt và ông chưa được thăm nuôi. Ông nói:
– Tôi còn tu. Anh ăn giùm cho!
Đổi lại, Nguyễn tặng ông phần sắn, nhưng ông nhất quyết không nhận.
Một hôm, đội được điều động làm công tác “đột xuất” (bất ngờ) là ra
“nghĩa địa”, tức một bãi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các
anh em đã nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ –kỳ thực chỉ là những nấm đất
vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng,
trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại Học Chiến Tranh
Chính Trị, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một
người quen biết từ trại Sơn La, Trung tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng
một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe
trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ
trẻ đẹp, từ Hà Nội trở lại thăm khi anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc
như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa giẫy cỏ
vừa thầm khấn các anh phù hộ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với
gia đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai tù lại tử tế như vậy. Thì
ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp đến thăm trại.
Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và
khu gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn rất mừng được thấy lại Ðại tá Nguyễn
Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ
chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp
vừa tròn mười tám. Chàng soạn một ít bánh mì khô, đường và mì gói, mấy viên thuốc
cảm, bỏ vào một bọc ni lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến
phía các bò lục, gặp Ðại tá Quỳnh trao cho ông, nói:
– Tôi mới được thăm, xin biếu đại tá.
Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang đánh
vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến sát hàng rào kẽm
gai và dúi vào tay một gói lương thực khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được,
chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:
– Quà với cáp linh tinh!
Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một
trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ:
– Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Nhà tôi mới sinh bị phù (thủng)
nặng.
Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nhìn nhau, không đáp, sợ bị
gài bẫy. Anh ta vội tiếp:
– Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.
Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, còn Bảnh ở lại canh
chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay
chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé như con chuột. Chị ta nói thuốc bệnh
xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.
Hai đứa phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà
lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã
được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động lòng trắc ẩn,
cả hai góp lại được chừng bốn mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đã quá
hạn, nhưng không còn gì hơn, và một chén sữa bột cho đứa bé, đem giấu dưới một
gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Hai tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang
nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội tiến ra, nhìn trước nhìn sau,
bảo:
– Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng
thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo
vệ, kẻo em bị kiểm điểm…
4. Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh Mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc,
đẹp trai, vui tính, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập
do ông làm đội trưởng, để tị nạn lao động vài tháng, mặc dù chàng dốt đặc về ca
nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn
nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài Tiếng Chày Trên Sóc Bom Bo,
trông xa, và vì vắng đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga.
Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Ðội được lệnh trình
diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào ban
hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:
– Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!
Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí
Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn
bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao
lại, giận dữ quát:
– Anh bôi bác cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà… mà anh
dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì… thì nà anh nếu náo thật!
Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:
– Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!
Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ
tay về phía một ông trung tá ký giả trọng tuổi, bút danh Ký Giả Lô Răng, đóng
vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:
– Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân
thọt! Anh có ý đồ phải không?
Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nhìn kỹ ông diễn
viên xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng.
Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc
dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với
Ðào văn Bảnh.
Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng
sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng
nhìn theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi
bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống
vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự
dưng lòng nao nao như mất người thân thuộc.
Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng
lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc
bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm
nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh “bình
luận gia tin tức quốc tế”. Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo
chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ
khác xa. Bọn cán bộ hình như về sau cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách,
trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai “phản động”. Những giàn ăng ten bị
bứng hết, và anh em có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng
nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen. Nhớ vợ thương con cũng đã
chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng rức trong
chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim hóa thành đá hết rồi. Giờ
đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép
qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng chửi
xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và
hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh – nói ngọng, chữ
tr thành t, l thành n – rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn từ xa chàng
lánh mặt.
Trong buồng giam, có một anh, tên Nguyễn Xuân Trung (mà sau này, qua Mỹ,
Nguyễn mới biết là cựu SVSQ khoá 1 trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, ra
trường khá lâu trước khi chàng được thuyên chuyển về Đà Lạt), chuyên chiếu
phim, tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Tối đến, tù nhân bu quanh, thay
nhau rót trà, mời kẹo, đấm lưng cho anh ta, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ
Cô Gái Ðồ Long đến La valse dans l’ombre qua Thần Điêu Đại Hiệp. Một anh nữa,
Trung Úy Phạm Hữu Lý, khóa 2, cũng trường Chiến Tranh Chính Trị, bạn đồng tù
rất tư cách và tự trọng của Nguyễn, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao
thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều Mưa Biên Giới anh
đi về đâu hoặc Xuân Này Nếu Con Không Về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay
sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn, nghệt cổ ra
nghe, thậm chí còn bảo “anh lào đó hát nại” vài câu.
Ðại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong “truyện” này kẻ
trước người sau đã đến bến bờ tự do. Từ Portland, thỉnh thoảng tôi gọi ông hay
viết thư thăm hỏi. Tôi được tin Đại Úy Hoàng Bá Linh, Đại Úy Nguyễn Ngọc Nhung,
Thiếu Tá Lê Ân, Trung Tá Ðào Văn Bảnh đã tạ thế, trong những hoàn cảnh khác
nhau. Cha Trần Thanh Cao, nghe nói, đang là cha xứ, quốc doanh, của một họ đạo
Sài Gòn. Bác Sĩ Đặng Phùng Hậu và nhà báo Đỗ Huy Hoàng định cư tại Texas. Còn
phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như thầy Nguyễn
Long.
Mẹ tôi, đã ngoài tám mươi, vẫn còn nơi quê nhà, ở với Huyền Trân và
chồng con. Ba tôi mất, không được gặp mặt. Những người em “cải tạo” lần lượt
định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa,
đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín Carmel, giữa tuổi
thanh xuân, làm nhiều con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một
cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng. Còn tôi,
sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách nát, đã bắt tay được với hạnh phúc –
nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ
niệm chỉ chực òa vỡ mỗi năm vào cuối tháng 4, hay mỗi lần nhớ đến mẹ và em từ
bên trời cũ, hoặc mỗi lần ở đầu dây tiếng Ðại tá Quỳnh, từ Florida, vang lên
trong điện thoại.
Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân nhắc Nguyễn hãy quên, hãy tha thứ, tha thứ,
tha thứ và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền
Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người gian manh,
độc tài, chuyên chế, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi
năm, và bây giờ lại còn đốn mạt dâng đất, dâng biển cho quan thầy Trung Cộng,
mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai
phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin – theo lời viên tổng tài
(consul) La Mã, Quintus Arrius, nói với Juda Ben Hur lúc còn là một tù nhân
chèo thuyền (galérien) trong phim cùng tên, Ben Hur – rằng hận thù cho sức
mạnh, làm ta tỉnh táo, đề phòng.
Kim
Thanh
November 24, 2017
304Đen - Llttm
No comments:
Post a Comment