ĐỌC THƠ TRẦN NHÂN TÔNG
Nguyên tác chữ
Hán:
(陳仁宗)
Phiên âm:
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
(Trần
Nhân Tông)
yết(謁): yết kiến,
báo cáo, vào hầu// thăm viếng.
tì hổ(貔虎): gấu,
cọp.
túc(肅): cung
kính, nghiêm nghị.
y quan(衣冠): y phục
của quan.
tại(在): ở,
như, còn//lời trợ ngữ chỉ đích danh chỗ nào.
vãng
vãng(往往): thường
thường
thuyết(說): nói,
lấy lời nói giải thích rõ sự vật gì.
Chiêu
Lăng:là vùng đất phát tích của vương triều Trần, vì cách đây hơn 700 năm, tại
đây các vị vua khai nghiệp nhà Trần được sinh ra, gia tộc nhà Trần dựa vào đây
dấy nghiệp.Khu di tích đền Trần Thái Bình thuộc làng Tam Đường, xã Tiến Đức
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Còn Trần Cảnh sau truyền ngôi cho con, lên làm
Thái Thượng hoàng. Đến năm Đinh Sửu (1277) ông mất, và mùng 4 tháng 10 cùng
năm, ông được táng ở Chiêu Lăng, phong miếu hiệu là Thái Tông.
Chuyện Nguyên Phong là nhắc về
niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 của vua Trần Thái Tông với
chiến công oanh liệt : Ngày 17.01.1258, quân Nguyên tràn tới cánh đồng
Bình Lệ (phía Nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ), vua Trần Thái Tông
đã đích thân chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc:
“Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha
tên đạn...” (theo Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư). Đến ngày 29.01.1258, tức chỉ nửa tháng
sau, vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoàng (vua Trần Thánh Tông sau nầy) đã phá tan
quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên lần thứ Nhất.
“Người lính bạc đầu” là nói về
những người lính 27 năm về trước (trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông
xâm lược nước ta lần thứ 1), nay đã là những ông
già đầu bạc, ngồi ôn lại chuyện cũ với lòng tự hào và xúc
động.
Mặc dù đã đánh thắng
quân nhà Nguyên xâm lược, nhưng trong
chính sách ngoại giao khôn khéo với đối phương, vua Trần
Nhân Tông luôn giữ phong thái đĩnh đạc: Khiêm hạ nhưng không yếu hèn, ôn nhu nhưng dũng lược, khoan hòa nhưng vẫn kiên
định vững chắc, khiến cho quân thù phải
nể nang và tôn trọng.
Dịch nghĩa:
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn ở nơi đây,
Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.
Áo quan thất phẩm rành.
Lính canh nay đầu bạc
Nguyên Phong trận liệt danh.
Nguyễn
Cang
Thị vệ canh ngàn cửa đứng nghiêm.
Bảy phẩm cân đai đầu đã bạc,
Nguyên Phong kể lại liệt oanh thêm. .
Lạng Châu
vãn cảnh
Nguyên tác chữ
Hán :
諒州晚景
漁船蕭瑟暮鐘初
水明山靜白鷗過
風定雲閒紅樹疏.
(陳仁宗)
Phiên âm:
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ.
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.
(Trần
Nhân Tông)
Lạng Châu
(諒州): một
địa danh có ngôi chùa cổ thuộc tỉnh Hà Bắc ( Bắc Giang) miền bắc Việt Nam.
vãn(晚): buổi
chiều, muộn
tự (寺): chùa
thê(淒): buồn
bả thê lương, tịch mịch
ái(靄): mây
đen mù mịt
ngư (漁): câu cá
tiêu (蕭): tịch
mịch
mộ (暮): buổi
chiều
chung(鐘): chuông
sơ(初): bắt
đầu
quá (過): đi qua
thụ(樹): cây
lớn
sơ(疏): thưa, ít
Dịch nghĩa:
Thuyền câu buồn bã, chuông chùa bắt đầu điểm.
Nước trong, núi lặng, cò trắng bay qua,
Gió im, mây lững lờ, cây thưa lá đỏ.
Thuyền cá buồn tênh, chuông chiều rơi.
Núi tạnh nước trong, âu trắng lượn,
Gió lặng mây nhàn, lá đỏ phơi.
Chuông chùa hiu hắt vọng thuyền câu
Cánh âu lờ lững nghiêng trên sóng
Lá đỏ tơi bời đổ bến sâu.
V.Ng
Thuyền câu buồn bã tiếng chuông đưa
Nước trong núi tĩnh con cò lượn
Gió lặng mây nhàn lá đỏ thưa.
Thuyền câu nằm đợi chuông chiều ghé chơi
Nước trong cò trắng ngang trời
Cây trơ lá đỏ gió khơi mây ngàn
Nước trong cò trắng ngang trời
Cây trơ lá đỏ gió khơi mây ngàn
Thuyền câu lặng lẽ tiếng chuông buồn!
Nước trong, núi vững đàn cò lượn,
Lặng gió mây ngừng lá đỏ tuôn!
Bài thơ
"Lạng Châu vãn cảnh" được vua Trần Nhân Tông sáng tác khi ngài đi
thăm ngôi chùa cổ ở Lạng Châu, vào một buổi chiều mùa thu. Cảnh vật nơi
đây hoang vắng, chỉ có tiếng chuông từ
xa vọng lại. Bên dòng sông nhỏ buồn hiu
lặng lẽ, mặt nước phẳng lỳ, một chiếc thuyền câu lặng lờ trôi, trên
không đàn cò trắng nhẹ cánh bay qua khu rừng lá thay màu đỏ rực như một bức
tranh thủy mạc lung linh sinh động.
Trần Nhân
Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng
12 năm 1258 – 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh Trần Khâm (陳昑), là vị
hoàng đế thứ ba của hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ năm 1278 đến
năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần
Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp
cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ
nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư
lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.
Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3.
Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự (Vikipedia).Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi Tập, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập.
Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3.
Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự (Vikipedia).Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi Tập, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập.
Nguyễn
Cang(10/9/18)
No comments:
Post a Comment