Dòng thơ bình dân vô danh của người mất nước
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời Cộng Sản mà thương dân lành!”
( NTrD)
Sau năm 1975 cho đến nay, mảnh đất miền Nam mình rộ lên dòng thơ bình
dân, mà người viết tạm đặt tên là "dòng thơ bình dân vô danh của người mất
nước", thường chỉ là truyền miệng hoặc nghe ai đó đọc qua một lần rồi tan
biến vào hư không chẳng ai hay biết, tác giả hầu hết là vô danh để tránh bị
bắt, không có ấn bản hay ghi chép lại để giới độc giả có thể biết và giới học
giả có thể phân tích.
Dòng thơ này dù mộc mạc chân chất nhưng lại rất hay, rất thấm thía cho
những ai mang thân phận của một dân tộc bị bại trận bởi chủ nghĩa cộng sản. Xin
thí dụ như:
Búa liềm kèm kẹp cả trời cũng than!
Loa phường sáng sáng oang oang
Vinh quang cho đảng ức oan dân lành!”
“Thiệu” là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam Cộng Hòa. "Búa
Liềm" là chỉ chế độ Cộng Sản. Sau năm 1975, chữ "Thiệu" trở
thành tượng trưng cho một đất nước hiền lành yêu đương tốt đẹp thời Việt Nam
Cộng Hòa.
Hay như bài thơ sau đây người viết này tình cờ đọc được trên tờ giấy gói
bánh mì. Đọc xong mà không khỏi sững sờ, giật mình! Bài thơ này không có tựa
nên người viết xin lấy câu đầu làm tựa bài, xin cho người viết gởi lời cầu chúc
bình an đến gia đình tác giả dù muộn màng sau bao nhiêu năm:
Năm năm rồi chuyển trại liên miên
Bao đợt thăm nuôi khốn khó hết tiền
Nhà của mẹ giờ đã bị lấy!
Bàn tay bầm em cuốc sỏi khai mương
Hai đứa nhỏ bị đuổi khỏi trường
Ôm bụng đói ngày cơm một bữa!
Chẳng có thuốc men nên ngày một nặng thêm
Cô Ba đến thăm bảo nhỡ khi em chết,
Sẽ nuôi hai con để đợi anh về!
Khi quê hương chưa kịp đầu hàng
Khi anh còn cầm súng gác đồn xa
Hai con thơ ôn bài bên cửa sổ
Để khỏi phải sống ở mùa Hè
Tội con ve sầu cả đêm khuya lạnh
Cứ rên rỉ hoài, "chồng nó ở đâu?"
Cha tù về oan ức gởi thiên thu!
Mùa Xuân là tượng trưng chỉ cảnh đất nước trước ngày 30 tháng Tư đen,
mùa Hè là tượng trưng chỉ sau ngày mất nước. “Học Tập" là nói đến các trại
tập trung của Cộng Sản giống như các trại tập trung của phát xít Đức sát hại cả
triệu người Do Thái. Chưa có con số thống kê chính thức nhưng theo ước tính
cũng có gần một triệu người bị giam cầm trong các trại tập trung này không xét
xử sau 30 tháng Tư 1975, có trên cả ngàn người bị thảm sát tại các trại tập
trung này, nổi lên có địa danh trại Suối Máu .
Bài thơ này đại ý nói người vợ lính bị đánh tư sản phải ra vùng kinh tế
mới, rồi lâm bệnh vì đói kém khốn khó quá, sắp chết, không có chồng cạnh bên để
trăng trối hay lo mai táng, nên Bà đâm uất hận chỉ muốn chết trước khi dân tộc
mình đầu hàng Cộng Sản.
Thể điệu và thi pháp của lối thơ bình dân vô cùng đa dạng, đủ kiểu đủ
loại, thí dụ như bài thơ ngắn sau đây làm theo thể đối thoại, tựa do người viết
đặt:
_Tới rồi! Đang ở Bi-đông!
Mai này thăm trại gặp chồng
Nói cho ảnh biết để lòng được vui!
_ Chồng chị đã ở bao lâu?
_ Bảy năm tính chẵn âu sầu làm sao!
_ Ảnh trước trung úy thôi mà,
Vì sao lại phải tù dai vậy trời!
_ Cũng là bởi tại số trời,
Chiến công giết Cộng lắm người biết tên!”
Bi-đông là trại tị nạn thuyền nhân Việt Nam ở Mã Lai. Theo ước tính của
Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có khoảng trên một triệu người dân Việt Nam Cộng
Hòa vượt biển sau năm 1975, chỉ một phần tư là đến được bến bờ tự do.
Hay như thể vè năm chữ như sau, chẳng vần điệu gì cả mà đọc lên không
khỏi ít người rơi lệ cho thân phận nhọc nhằn của một dân tộc bị bại trận trước
chủ nghĩa Cộng Sản:
Chồng em lính Nhảy Dù
Trước nhảy toán Trường Sơn
Giết bao thằng giặc Cộng!
Tù tội được năm năm!
Tiền của chẳng còn chi!
Mười bốn tuổi xuân xanh
Mười hai tiếng khiêng gạch
Đứa nhỏ giờ gầy nhom
Đi rữa chén ngoài chợ
Mười hai tuổi ngây thơ
Tám tiếng trời nắng đổ
Phải cày cuốc ngoài đồng
Lúa làm giao cho đảng
Hủ gạo nhà trống không!
Em vẫn vì chồng mãi
Thăm nuôi khắp cổng tù
Cho chồng em bớt khổ!"
Chú thích: Bài vè này rộ lên vào khoảng năm 1984, rất tếu ở câu:
"giết bao thằng giặc Cộng" khi khai lý lịch.
Dòng thơ bình dân của người mất nước cũng không kém phần lãng mạn như
thơ của những thi sĩ thành danh, đọc lên hay nghe qua vẫn làm rung động lòng
người. Thí dụ như:
Mà lòng buồn vời vợi
Mười năm trời trông đợi
Hình ảnh một người tù.
Ngày chỉ một buổi ăn!
Đêm đêm em nằm khóc
Thương con chịu nhọc nhằn!
Có gởi chút món quà
Tháng này em bôn ba
Thăm anh trong chua chát
Héo úa giống đời mình
Ngày nào anh được thả?
Da diết cõi lòng riêng!
Điều đặt biệt là người viết lại có thể thu lượm được một bài thất ngôn
bát cú, đọc rất hay mà người viết đã trình bày trong bài "Tình Cô
Giang" (*) lâu lắm rồi, nay xin trích lại. Bài thơ đó như sau:
Tôi đây phải sống ráng nuôi chồng
Việt Cộng bạo tàn gây khổ đói
Chồng tôi lính chiến chịu tù gông
Con thơ bụng đói ngồi nhớ tía*
Mẹ già bệnh yếu mãi chờ trông
Ky kóp từng đồng cơm chan lệ
Đâu sướng như Cô, chết vẹn lòng!
Có thể nói, dòng thơ bình dân mang thân phận người mất nước sau năm 1975
tại miền Nam vô cùng đa dạng, miêu tả thẳng vào thực tế hoàn cảnh thân phận của
người dân mất nước một cách chính xác. Xin trình bày một bài thơ khác cho mọi người
thưởng thức. Bài thơ này cũng không có tựa, người viết đặt tựa dùm. Bài này
người viết được biết trọn bài khi lên Đà Lạt năm 1991, lác đác vài câu nổi
tiếng của bài này đã được mọi người ngâm trước đó
Nhớ người thân phút phút cứ nghẹn ngào
Gặp được em, lòng anh đang cỏ úa
Bổng xanh tươi như thấy trận mưa rào!
Chẳng thăm nuôi ốm đói buồn đau
Khi em về ghé sang nhà quận Tám
Ngó dùm anh Chị ấy có ra sao?
Bao thằng lính, gia tài là con vợ,
Xương xác quèn, chôn bợ cũng chẳng sao!
Để nổi buồn của ảnh được vơi vơi
Những thằng lính cầm súng cả nữa đời
Khát đói lắm tình yêu xứ sở!
Ráng vì anh mà nghĩ đến màu Cờ
Bọn anh giờ ngày ngày tủi nhục
Nghĩ đến Cờ mà ráng sức tồn sinh!
Gởi quà về giúp mình trong khốn đốn
Nếu ngày ấy, đừng vì anh em ở lại
Thì bây giờ con cái chẳng đói meo!
Cũng nhờ em thấp hộ trong lòng
Một nén nhang tưởng người đã khuất
Anh Tư em chết trận sáng nào!
Trước tương lai đói chết mịt mù
Đừng vì anh chồn chân ở lại
Hãy vì con cố thoát khỏi xứ này
Đôi mắt em lung linh như huyền thoại
Của Phật bà khi ngó xuống trần gian
Cứu rỗi đời anh bại trận đầu hàng!
Hãy vì con cố thoát khỏi xứ này"
Bài thơ này, theo như một số người đọc qua, cho rằng hai câu:
Xương xác quèn, chôn bợ cũng chẳng sao!”
Đặc biệt có bài thơ này nghe rao mà não ruột:
Bán cho em em gánh về lò
Kiếm chút tiền nuôi đàn con nhỏ
Sáng giờ rồi chưa có hột cơm!
Ba chục đồng thiết hay thau"
Cả ngày em đi khắp phố rao
Dưới trời nắng gắt lệ trào không khô!
Bị lấy nhà ở tạm chòi canh
Bà con cô bác gần quanh
Người cho mảnh áo, người đưa chút tiền
Không biết làm sao có đủ để thăm nuôi chồng
Chồng em là lính mang lon úy
Tù tội bao năm chẳng ngày về
Uống vào lòng cho lệ bớt mặn chua
Chồng của em tù tội mút mùa
Mong cô bác giúp em kiếm sống!
Tuổi mười ba bôn ba như mẹ
Ngày hai chục đồng mua lon gạo thổi cơm
Cho hai em nhỏ đói meo nhớ bố
Bán cho em em gánh về lò
Kiếm chút tiền nuôi đàn con nhỏ
Sáng giờ rồi chưa có hột cơm!"
Vào đầu thời kỳ Đổi Mới, những dòng nhạc mang thân phận người dân mất
nước ở hải ngoại có dịp tràn về Việt Nam, hòa vào những lời ai oán bất tận ở
trong nước. Do có điều kiện, những bài nhạc này được phổ biết, tạo nên tên tuổi
cho tác giả. Thí dụ cụ thể là bài "Một chút quà cho quê hương" của
anh Việt Dzũng. Lời bài nhạc này như sau:
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón tay
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy
Chị may áo cưới hay chị may áo tang
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em ăn cho ngọt vì đời nhiều cay đắng
Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây
Gởi về Việt Nam nước mắt đong đầy
Mơ ước một ngày quê hương sẽ thanh bình
Anh vẽ cuộc đời như ước vọng mong manh
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh
Mẹ pha hộ con nước mắt đã khô cằn
Chị đốt cuộc đời trong hoang lạnh mù sương
Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương
Em bán cho đời tìm đường vượt biên
Cha chôn cuộc đời trong trong tử tù chung thân
Gởi về Việt Nam khúc hát ân cần
Mơ ước yên lành...
trong giấc ngủ.... da.... vàng...."
Nhân đây, cũng xin nguyện cầu cho hương hồn Anh tiếp tục trợ giúp người
dân dành lại quê hương từ tay cộng sản.
Do có tự do và điều kiện, dòng thơ nhạc mang thân phận người mất nước ở
Hải ngoạiphát triển mạnh mẽ, đem đến tên tuổi cho nhiều tác giả. Trong khi đó,
dòng thơ mang thân phận của người mất nước xuất phát từ trong xứ chỉ mãi mãi
thầm lặng vô danh và trở thành đứa con chưa thừa nhận của nền thi ca nước nhà.
Có cả ngàn bài thơ vô danh như vậy nhưng nay, một số bài chỉ lác đác còn nhớ
một vài câu. Người viết không thể sưu tập hết mà chỉ có thể sưu tập tới đâu hay
tới đó, để sau này gởi lại cho mọi người thưởng lãm, để giới phân tích nhìn
rộng ra thêm một phần thi thơ tuyệt tác của dân tộc mình.
Ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa tháng 11 sắp tới đây cũng đã gần kề.
Xin viết bài này cám ơn tất cả các tác giả bình dân vô danh mang thân phận mất
nước đã đem đến cho đất nước một nguồn thi ca vô tận. Không những vậy, những
bài thơ bình dân của các tác giả vô danh này đã là sử tích cho một thời kỳ đất
nước đen tối và góp phần bảo tồn tinh thần Quốc Gia xứ sở trước thảm họa Cộng
Sản.
Cũng xin cám ơn tình yêu của những người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa.
Những người phụ nữ này thật sự đã không đầu hàng trước số phận, không đầu hàng
trước nghịch cảnh mà cộng sản gây ra. Chính họ đã đem chiến thắng về cho dân
tộc này trước cộng sản, đó là tiếp tục chống cộng sản trong đời thường một cách
mạnh mẻ dữ dội để tinh thần Việt Nam Cộng Hòa còn mãi trong nhân cách của dân
tộc, còn mãi ở thế hệ sau. Đây là một chiến thắng thầm lặng nhưng vĩ đại!
304Đen – Llttm - DLB
No comments:
Post a Comment